Giáo trình Nghệ thuật tạo hình (Phần 2)

Màu là “ Chất dùng để tô thành các màu khi vẽ.” (TĐTV tr.592).

Nhiều tài liệu trực tiếp hoặc gián tiếp nói về chất liệu, vật liệu, kỹ thuật tạo

hình- trước hết là hội hoạ.

Ví dụ : cuốn “ Thực hành màu sắc và hội hoạ” ( Robert Duplos, NXBMT 1999 )

giới thiệu, hướng dẫn những điều căn bản bước đầu hội hoạ, trong đó có việc sử

dụng vật tư, hoạ cụ, cách pha màu để vẽ sơn dầu, phấn dầu, màu nước. Cuốn “ Màu

sắc và phương pháp vẽ màu” ( Đặng Duy Lẫm, Đặng Thị Bích Ngân, NXBVH - TT

, 2001 ) đã “ trình bày khái quát những đặc trưng, tính chất của màu sắc, các dạng

hoà sắc và hiệu quả thị giác của nó. Đặc biệt, sách đưa ra phương pháp vẽ màu

thông dụng nhất cho chất liệu bột màu, thuốc nước, sơn dầu, phấn màu”(tr5 ) Có

nhiêù tài liệu giới thiệu chuyên về một chất liệu, bút pháp, kỹ thuật hội hoạ, như Kỹ

thuật vẽ sơn dầu, Kỹ thuật vẽ thuốc nước, kỹ thuật vẽ sơn mài, Bí quyết vẽ tranh

thuỷ mặc

Nhìn chung, chất liệu, phương tiện kỹ thuật vẽ gồm có: màu và vật liệu để vẽ

màu lên; bút vẽ, dao, bay. Màu vẽ tranh thông dụng là chì đen màu bột, màu nước,

phấn màu, sáp màu, chì màu, màu dầu. Vật liệu để vẽ màu là giấy, bìa, vải, lụa, gỗ

dán Bút vẽ - còn được gọi là bút lông (cọ vẽ), thường làm bằng lông thú.

Giáo trình Nghệ thuật tạo hình (Phần 2) trang 1

Trang 1

Giáo trình Nghệ thuật tạo hình (Phần 2) trang 2

Trang 2

Giáo trình Nghệ thuật tạo hình (Phần 2) trang 3

Trang 3

Giáo trình Nghệ thuật tạo hình (Phần 2) trang 4

Trang 4

Giáo trình Nghệ thuật tạo hình (Phần 2) trang 5

Trang 5

Giáo trình Nghệ thuật tạo hình (Phần 2) trang 6

Trang 6

Giáo trình Nghệ thuật tạo hình (Phần 2) trang 7

Trang 7

Giáo trình Nghệ thuật tạo hình (Phần 2) trang 8

Trang 8

Giáo trình Nghệ thuật tạo hình (Phần 2) trang 9

Trang 9

Giáo trình Nghệ thuật tạo hình (Phần 2) trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 33 trang baonam 10980
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Nghệ thuật tạo hình (Phần 2)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Nghệ thuật tạo hình (Phần 2)

Giáo trình Nghệ thuật tạo hình (Phần 2)
 Chương 2. MỘT SỐ CHẤT LIỆU MÀU
 VÀ KỸ THUẬT SỬ DỤNG
 Màu là “ Chất dùng để tô thành các màu khi vẽ.” (TĐTV tr.592).
 Nhiều tài liệu trực tiếp hoặc gián tiếp nói về chất liệu, vật liệu, kỹ thuật tạo
hình- trước hết là hội hoạ.
Ví dụ : cuốn “ Thực hành màu sắc và hội hoạ” ( Robert Duplos, NXBMT 1999 )
giới thiệu, hướng dẫn những điều căn bản bước đầu hội hoạ, trong đó có việc sử
dụng vật tư, hoạ cụ, cách pha màu để vẽ sơn dầu, phấn dầu, màu nước. Cuốn “ Màu
sắc và phương pháp vẽ màu” ( Đặng Duy Lẫm, Đặng Thị Bích Ngân, NXBVH - TT
, 2001 ) đã “ trình bày khái quát những đặc trưng, tính chất của màu sắc, các dạng
hoà sắc và hiệu quả thị giác của nó. Đặc biệt, sách đưa ra phương pháp vẽ màu
thông dụng nhất cho chất liệu bột màu, thuốc nước, sơn dầu, phấn màu”(tr5 )Có
nhiêù tài liệu giới thiệu chuyên về một chất liệu, bút pháp, kỹ thuật hội hoạ, như Kỹ
thuật vẽ sơn dầu, Kỹ thuật vẽ thuốc nước, kỹ thuật vẽ sơn mài, Bí quyết vẽ tranh
thuỷ mặc
 Nhìn chung, chất liệu, phương tiện kỹ thuật vẽ gồm có: màu và vật liệu để vẽ
màu lên; bút vẽ, dao, bay... Màu vẽ tranh thông dụng là chì đen màu bột, màu nước,
phấn màu, sáp màu, chì màu, màu dầu. Vật liệu để vẽ màu là giấy, bìa, vải, lụa, gỗ
dánBút vẽ - còn được gọi là bút lông (cọ vẽ), thường làm bằng lông thú.
 2.1. Chì đen
 Chì đen (bút chì đen) là loại bút có lõi bằng chất liệu than chì và các hợp chất 
của nó hoặc tương tự, dùng để viết hoặc vẽ trên giấy hoặc gỗ
 Đây là loại chất liệu dễ tìm, dễ sử dụng, dễ điều khiển nét vẽ và dễ tẩy xóa, giá
thành rẻ. Có nhiều loại: chì cứng HH, loại trung tính HB, loại mềm B(2B, 3B).
Trong hội họa, để dễ vẽ, ta thường dùng loại chì mềm, còn chì cứng dùng trong kĩ
thuật nhiều hơn.
 83
 Bút chì thường được sử dụng trong những bài tập hình họa(vẽ theo mẫu) đen
trắng. Bút chì được sử dụng cũng thường là loại chì mềm 2B, 3B, 4B, 5B, 6B. Về
lý thuyết, độ dẻo, độ mềm và đen của bút chì tăng dần theo số. Khi vẽ đậm nhạt, bút
chì không nên vót nhọn như bút viết mà nên để nguyên lõi chì. Tay cầm bút cũng
không nên cầm quá chặt. Càm bút chì trong lòng bàn tay, ngón trỏ và ngón giữ đỡ
lấy thân bút, ngón cái đè trên thân bút. Hoạt động chủ yếu là cổ tay và cánh tay. “Để
vẽ được nét đẹp, dài nét, mềm mại, khoáng đạt thì phải có cách cầm bút hợp lí là để
ngửa bàn tay, bút chì để dọc theo bề ngang của ba ngón tay, ngón tay cái đè lên bút
chì và cứ thế mà vẽ, đầu bút chì nằm ngang không dâm thẳng vào giấy, nét lướt qua
mặt giấy sẽ mềm mại mà lại vẽ được nét dài phóng khoáng, không rụt rè mà vẫn
chính xác” (Họa sĩ Phạm Viết Song).
 Bút chì HB
 84
 Du kích Củ Chi, tranh bút chì của Huỳnh Phương Đông
 2.2. Mực nho
 Mực nho(còn gọi mực tàu) là chất màu cacbon đen pha trong chất keo lỏng hay
các dung môi gắn kết khác. Có thể tạo mực nho từ muội than của nhựa hoặc gỗ. Các
dạng gỗ khác nhau sẽ tạo ra các loại mực nho có sắc độ đen khác nhau. Mực nho
được sử dụng rộng rãi từ xưa tới nay, để viết, vẽ trên giấy, lụa Tranh vẽ bằng
mục nho còn được gọi là tranh thủy mặc.
 85
 Tranh mực nho của Tề Bạch Thạch
 2.3. Than
 Các loại cây khi đốt cháy thành than đều có thể dùng để vẽ. Than dùng để vẽ
hình họa trong các trường mỹ thuât thường là than cây dâm bụt, xoan, dâu (loại gỗ
mềm).
 Than vẽ có thể sản xuất bằng công nghệ hoặc thủ công. Cắt các cành gỗ mềm
nói trên thành cành nhỏ bằng cây bút chì dài khoảng 10cm, buộc lại thành bó nhỏ,
bọc kín bằng đất sét, đem đốt chín. Than có độ xốp, tiện dụng. Khi cần tẩy xóa, có
thể búng nhẹ lên mặt giấy hoặc dùng ruột bánh mì tẩy. Bài vẽ than muốn giữ được
lâu phải phun một lớp keo dính để than khỏi rơi rụng.
 86
 2.4. Màu chì (Bút chì màu)
 Chì màu có thân cứng, cũng giống như bút chì, chúng rất dễ vẽ. Chì màu cũng
phong phú màu. Dùng để theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh. Lõi chì màu là một thành
phần kém kết dính hơn bút chì đen và kém độ dai, độ bền hơn so với sáp màu. Vì
vậy, khi sử dụng cần lưu ý:
 + Gọt bút chì màu bằng dao gọt chì dễ gãy phần lõi chì ngay khi vừa vót xong. 
Nếu dao gọt sắc thì xác suất hao hụt của chì màu ít hơn và ngược lại.
 + Cầm bút đúng độ nghiêng và tô đúng cách. Thông thường cầm chì màu phải
cầm như bút chì đen và tô lướt nhẹ nhàng. Muốn đậm thì trở đi trở lại nhiều lần ở
cùng một khu vực chứ không nên ấn mạnh tay.
 + Có thể vẽ chồng màu lên nhau như pha trộn màu bột hoặc đặt màu nọ gần 
màu kia để tạo ảo giác pha trộn.
 Bút chì màu
 87
 2.5. Màu sáp (Sáp màu)
 Từ màu bột pha chế, trộn lẫn với chất sáp, tạo thành màu sáp. Màu sáp thường 
ở dạng thỏi tròn. Có cả sáp dầu.
 Sáp màu và sáp dầu cũng tương tự nhau, được sử dụng trong nhiều loại bài như
vẽ tranh, vẽ trang trí, vẽ theo mẫu. Một số lưu ý khi vẽ màu sáp:
 +Cũng như bút chì, khi sử dụng loại chất liệu này không nên vót quá nhọn sẽ 
dễ gãy và gây khó khăn trong việc tô màu.
 + Nên vẽ lên mặt rám của giấy, kê lên bìa cứng hoặc gỗ có mặt ráp để màu sáp 
dễ bắt vào giấy.
 + Sáp màu cũng như bột màu, ta tô thuần một màu ở các mảng hình hoặc có 
thể pha màu hoặc chồng màu để tạo màu mới theo ý muốn.
 + Nhiều loại sáp màu kém chất lượng tạo ra nhiều mạt, các mạt này không 
bám hết vào giấy mà rời bên ngoài, dễ làm bẩn tay và làm lem nhem bài vẽ
 Sáp màu
 88
 2.6. Màu dạ (Bút dạ)
 Bút dạ có nhiều loại: loại nhỏ như bút chì, loại lớn ngòi to tròn hay dẹt. Ruột
bút dạ làm bằng xốp để dẫn mực. Mực bút dạ có nhiều màu. Bút dạ thường dùng để
vẽ trang trí, vẽ tranh và kẻ chữ rất thuận tiện.
 2.7. Màu phấn (Phấn màu)
 Là những thỏi bột màu từ 12 – 14 màu hoặc nhiều hơn nữa. Khác với sáp và
chì màu, phấn màu là dạng bột ép thành thỏi, ít keo nên vẽ xong thường phun chất
keo dính. Phấn màu dùng dễ như than, bút chì, có thể vẽ nhẹ nhàng và pha màu
ngay trên bài vẽ.
 Chân dung, phấn màu của Bùi Xuân Phái
 2.8. Màu nước (Thuốc nước)
 Màu nước cũng được chế xuất từ bột màu nghiền kỹ, pha môi có chất kết dính,
có thể đóng thành tuýp, thành viên, hoặc thành thỏi. Màu nước thường vẽ trên giấy,
trên lụa tơ tằm. Khi vẽ thường dùng bút lông mềm, pha loãng vừa phải với nước đủ
để màu loang nhẹ. Màu nước thường vẽ mỏng, các mảng màu tan trong nhau không
có ranh giới rõ ràng.. Vẽ màu nước trên lụa gọi là tranh lụa.
 89
 Màu nước được sử dụng trong những bài vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh.
Màu nước có tính chất nhẹ, trong trẻo. Một số lưu ý khi vẽ màu nước:
 + Nếu vẽ màu dày quá hoặc di đi di lại nhiều lần sẽ làm mất độ trong của màu
nước.
 + Nên pha màu với nước sạch trên bảng pha màu, dùng bút lông lấy lượng màu
vừa đủ lướt lên mảng hình.
 + Muốn tăng độ đậm nhạt thì chờ màu trên mảng màu đó gần khô rồi vẽ chồng 
tiếp lên lớp màu nữa.
 + Nếu vẽ màu đặc quá, khi khô màu sẽ đục và bẩn.
 + Nếu chồng màu khi màu còn ướt, màu dễ bị loang, bẩn.
 + Nếu pha nhiều màu với nhau, màu dễ bị xỉn, khô cứng.
2.9. Màu bột (Bột màu)
 Màu ở dạng bột, khi vẽ phải dùng nước và keo làm dung dịch, khi ướt màu đậm
hơn, khi khô màu nhạt hơn. Quá trình gia công của chất liệu và kĩ thuật tương đối
đơn giản, không bị gò bó. Nét màu được tự do, phóng túng, có thể vờn nhẹ. Ranh
giới giữa các mảng khá rõ ràng. Màu bột có thể vẽ trên giấy, vải, gỗ, tường. Tranh
màu bột là một chất liệu tiện dụng và có đặc trưng riêng. Một số tác phẩm bột màu
được kể đến như: “Đền voi phúc” của họa sĩ Văn Giáo, “Du kích tập bắn” của
Nguyễn Đỗ Cung, “Ao làng” của Phạm Thị Hà, “Góc sân”, “Mướp vàng” của
Phạm Viết Hồng Lam,..
 Du kích tập bắn, tranh màu bột của Nguyễn Đỗ 
 Cung 90
 2.10. Màu dầu (Sơn dầu)
 Người Phương Tây biết đến sơn dầu từ rất sớm (thế kỉ XV) và nó đã trở thành
một chất liệu đặc biệt quan trọng và hấp dẫn các họa sĩ châu Âu. Sơn dầu du nhập
vào Việt Nam từ khi người Pháp mở trường cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương 1925.
 Sơn dầu là một loại họa phẩm thường được làm dưới dạng bột khô, nghiền kỹ
với dầu lanh (cây gai) hay dầu cù túc. Tuy nhiên, việc chế màu đòi hỏi phải có kiến
thức chuyên môn để tránh pha trộn, gây những phản ứng hóa học giữa các chất màu
bởi sắc tố có thể là nguyên liệu khoáng, nguyên liệu hữu cơ hoặc nguyên liệu hóa
học (theo 
 Sơn dầu không thấm nước, có độ dẻo và độ che phủ mạnh (dễ dàng phủ kín lớp
sơn khác ở dưới, trừ các màu có tính đặc biệt). Cũng có lúc người ta dùng từ "màu
dầu" thay cho từ "sơn dầu" khi chỉ chất liệu tác phẩm.
 Sơn dầu là một chất liệu rất tiện trong lĩnh vực sáng tác tạo hình. Đây cũng là
một chất liệu có khả năng diễn tả được con người cũng như muôn vẽ với tất cả các
sắc màu tinh tế nhất bởi nó có thể chất óng mượt, đặc quyện, nhưng lại có chất
trong, có chiều sâu. Nó rất tiện dụng cho họa sĩ thực hiện ý định, cảm xúc của mình
và tác phẩm.
 Sơn dầu có một ưu thế nổi bật nhất là khả năng tả chất mạnh mẽ. Cho nên dùng
chất liệu này để vẽ trực tiếp, diễn tả trực tiếp trước đối tượng thì khó có thể có chất
liệu nào so sánh kịp. Dưới bàn tay của họa sĩ tài năng thì các đồ vật cỏ cây như sờ
thấy được, quả nho như mọng nước, hoa có mùi hương hoặc cảm giác mềm mại.
 Quá trình thể hiện và kĩ thuật sử dụng chất liệu này không bị gò bó. Nét màu có
thể tự do phóng túng, có thể vẽ dày hay mỏng, đậm hay nhạt, mạnh mẽ hay vờn nhẹ,
nét bút. Màu sắc từ khi vẽ đến khi hoàn thành vẫn không thay đổi
 Nhiều tác phẩm sơn dầu nổi tiếng của các họa sĩ như “Thiếu nữa bên hoa huệ”,
“Thuyền trên sông Hương” của họa sĩ Tô Ngọc Vân, “Em Thuý” của Trần Văn Cẩn,
“Đồi cọ” của Lương Xuân Nhị, “Giặc đốt làng tôi” của Nguyễn Sáng.
 91
 Hai thiếu nữ, Tranh màu dầu của Dương Bích Liên.
2.11. Sơn mài
 Là chất liệu có từ lâu đời của Việt Nam, từ thời Lý (thế kỉ XI) hoặc có thể sớm
hơn. Xưa kia sơn mài chỉ dùng trong trang trí mỹ nghệ, chủ yếu nó được dùng hàng
ngày như mâm, hương án, hoành phi câu đối, lọ cắm hoa, tủ. Sơn mài từ các màu
sơn non, đen (then), dát vàng, dát bạc, gắn khảm trai, xà cừ, và phủ lên lớp dầu
bóng để làm tăng thêm vẽ đẹp và độ bền.
 Từ sau 1920, từ một chất liệu trang trí mỹ nghệ, sơn mài trở thành một chất
liệu tạo hình độc đáo ở nước ta. Nó đã được phát triển thành kĩ thuật hội họa, mở ra
cho các họa sĩ khả năng rộng lớn trong sáng tác của mình, là một trong những
phương tiện nghệ thuật của nền hội họa Việt Nam hiện đại. Đi đầu và thành công
trong sử dụng sơn mài vào hội họa là Nguyễn Gia Trí (1908 – 1993), Tô Ngọc Vân
(1906 – 1954)
 Chất sơn dùng để vẽ tranh sơn mài được lấy từ nhựa cây sơn. Đấy là “sơn
sống”, phải qua chế biến mới thành “sơn chín” phải đánh sơn cho bay hết nước để
còn lại chất dầu. Muốn có sơn đen, phải đánh sơn trong chậu gang. Trong quá trình
đánh sơn có thể cho vào một ít nhựa thông để sơn bóng hơn và dễ mài (theo Trần
Tiểu Lâm, Mĩ Thuật học, tr.23).
 92
 Chiều hôm những ánh vàng, Tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí
2.1.2. Bút vẽ màu
 Khi vẽ màu bột, màu nước, sơn dầuthường phải dùng bút (bút vẽ còn được
gọi là cọ vẽ). Bút vẽ thông dụng là bút lông.
 Bút lông (mao bút) là loại bút đầu có tuýp lông dạng tròn, dẹt, nhọn... cán dài
nhiều cỡ. Người Trung Hoa cho rằng, bút lông cùng với giấy, mực tàu, nghiên là văn
phòng tứ bảo, nghĩa là bốn món đồ quí của chốn làm văn, trung gian chuyên chở
ngôn ngữ, ý nghĩa và nghệ thuật.
 Bút có cấu tạo đơn giản gồm cán bút để cầm viết; lông để hút mực và chuyển
mực lên giấy. Theo thời gian cây bút lông có thay đổi về vật liệu chế tạo với mục
đích làm sao chữ viết được tinh xảo hơn và lông gắn vào quản bút cho chắc chắn,
khéo léo hơn. Ngoài trúc, người ta còn dùng các loại vật liệu khác như gỗ, ngà, ngọc
 93
và cả kim loại như đồng, sắt, vàng, bạc để làm quản bút. Lông butr có thể là lông
thỏ, lông chồn, đuôi ngựa
 Bút lông có đặc điểm nét vẽ đậm, mực thấm nhanh vào giấy vẽ. Đối với loại
giấy in mỏng, màu bút lông dễ dàng hiện rõ sang cả mặt sau của giấy. Trong cùng
một bài vẽ, nếu sử dụng kết hợp với chất liệu khác như chì, chì màu, sáp màu, sáp
dầu,..bút lông dễ dàng bật màu lên hơn các màu khác. Vì đặc điểm này, bút lông
thường được sử dụng khi viền nét.
 Khi sử dụng loại bút lông để viền nét cần viền đều tay, rõ nét nhưng không nên
đè bút quá mạnh.
 Các loại màu vẽ khác nhau
 Hướng dẫn học chương 2:
 1. Đọc thêm tài liệu tham khảo, tìm hiểu thêm về:
 - Màu và các chất liệu khác của nghệ thuật tạo hình
 - Vai trò của màu sắc trong cuộc sống và trong nghệ thuật tạo hình
 2. Tập nhận biết màu sắc và pha màu:
 - Bài 1: Tự nhận biết, gọi đúng tên các màu có trong hộp màu.
 - Bài 2: Thể hiện hiểu biết của mình về: màu cầu vồng, màu gốc, màu bổ túc, 
màu nóng lạnh(bằng hình vẽ, tô màu (có ghi chú, vẽ trên khổ giấy A3)
 94
 Chương 3. LUẬT XA GẦN VÀ GIẢI PHẪU TẠO HÌNH
 3.1. Luật xa gần
 3.1.1 Khái niệm
 Luật xa gần(LXG) là một môn khoa học giới thiệu phương pháp vẽ sự vật, đối
tượng trên mặt phẳng hai chiều cho giống như chúng tồn tại trong không gian thực
ba chiều. Luật là đúng, phải theo. Nắm phương pháp vẽ xa gần trên mặt phẳng cũng
tức là nắm luật. LXG còn có tên gọi khác như Luật viễn cận, Luật thấu thị, Luật
phối cảnh, Phép phối cảnh...LXG được các hoạ sĩ thời Phục hưng tìm ra, từ thực
tiễn sáng tác và được đúc kết thành lý thuyết khoa học. LXG là một trong những
môn cơ sở của ngành Mỹ thuật, Kiến trúc, Xây dựng. Kiến thức, kỹ năng LXG cần
thiết cho việc hình thành kiến thức, kỹ năng Hình hoạ (Vẽ theo mẫu), Hội hoạ (Vẽ
tranh)...LXG giúp vẽ hình hoạ, vẽ tranh theo phối cảnh thấu thị.
 3.1.2. Nội dung cơ bản của Luật xa gần
 Có thể tóm lược LXG về ba nội dung cơ bản sau:
 a. Tất cả các đường thẳng song song chạy về phía trước (phía đường tầm mắt)
đều gặp nhau tại một điểm.
 b.Tất cả các đường thẳng song song bằng nhau và cùng vuông góc với mặt đất,
chúng vẫn luôn song song, nhưng càng gần đường tầm mắt thì chúng càng ngắn lại,
và chúng sẽ mất hút trên đường tầm mắt.
 c.Tất cả các đường thẳng song song bằng nhau, cùng song song với đường tầm
 mắt, chúng vẫn luôn song song, nhưng càng gần đường tầm mắt thì chúng càng
 ngắn lại, và chúng sẽ mất hút trên đường tầm mắt.
3.1.3. Một số đường điểm cơ bản của Luật xa gần
 Hiểu và vận dụng LXG cũng có nghĩa là hiểu và vận dụng được các đường
điểm cơ bản của luật. LXG nêu ra nhiều đường, điểm để vận dụng, trong đó quan
trọng nhất là đường tầm mắt và điểm tụ.
a. Đường tầm mắt (TM cũng gọi là đường chân trời).
 95
 Đường tầm mắt là một đường thẳng nằm ngang với tầm mắt người nhìn, phân
chia mặt đất (hay mặt nước) với bầu trời, nên cũng gọi là đường chân trời. Đường
tầm mắt có thể thay đổi cao hay thấp tuỳ thuộc vào vị trí của người nhìn.
 b. Điểm tụ
 Là điểm gặp gỡ của các đường thẳng song song chạy về phía đường tầm mắt.
Có:
 - Điểm tụ chính (ký hiệu: P): là nơi gặp nhau của các đường thẳng song song 
với mặt đất và cùng vuông góc với đường tầm mắt.
 - Điểm tụ riêng (ký hiệu: P1, P2,): là nơi gặp nhau của các đường thẳng song
song với mặt đất nhưng không vuông góc với đường tầm mắt, hoặc các đường thẳng
song song không song song với mặt đất và cũng không vuông góc với đường tầm
mắt. P1, P2, có thể là bên trái, bên phải điểm tụ chính P, hoặc phía trên, phía dưới
đường tầm mắt (trên trời hoặc trong lòng đất).
 3.1.4. Ứng dụng Luật xa gần
 Luật xa gần được ứng dụng trong thiết kế kiến trúc, xây dựng
 Luật xa gần được vận dụng trong việc dạy học Hình họa ở các trường mỹ thuật
chuyên nghiệp. Bài học vẽ hình họa đầu tiên là bài vẽ mẫu khối cơ bản. Và khối lập
phương là một trong những khối cơ bản điển hình.
 Khối lập phương gồm có 6 mặt là hình vuông, 12 cạnh bằng nhau, trong đó có
ba nhóm các cạnh, mỗi nhóm gồm 4 cạnh song song cùng chiều hướng, khối hộp
dùng để minh họa đầy đủ cho ba nội dung cơ bản của Luật xa gần. Ví dụ:
 Các cặp cạnh của khối lập phương song song với mặt đất hướng về phía trước
(chiều sâu), càng xa càng thu hẹp và cuối cùng tụ lại ở một điểm
 Các cặp cạnh của khối lập phương song song với mặt đất hướng về phía trước
(chiều sâu), nếu vuông góc với đường tầm mắt thì càng xa càng thu hẹp và cuối
cùng gặp nhau tại P...
 Các cặp cạnh của khối lập phương song song và cùng vuông góc với mặt đất,
khi vẽ, cạnh nào gần đường tầm mắt hơn, chắc chắn cạnh đó phải vẽ ngắn hơn
 Các cạnh song song ở dưới thì chạy lên đường TM, các đường ở trên thì chạy
xuống đường TM.
 96
 Tóm lại, nắm được LXG, ta vẽ được các dạng khối hình học (cao hơn, ngang,
thấp hơn đường tầm mắt; chính diện, bên trái, bên phải điểm tụ chính),vẽ (thiết
kế) được các đồ vật, nhà cửavà vẽ (sáng tác) tranh theo phối cảnh xa gần.
 97
98
 Tranh tường và phối cảnh tranh tường
“Bữa ăn cuối cùng của chúa Giê-xu với tông đồ” của Leonard de Vinci
 99
 Xem thêm tài liệu, giáo trình riêng cho nội dung này, như :
 - Trần Tiểu Lâm, Đặng Xuân Cường – Luật xa gần và Giải phẫu tạo hình (Giáo
trình đào tạo giáo viên THCS hệ CĐSP) – NXB Giáo dục, 1998.
 - Phạm Công Thành, Luật xa gần, NXB VH – TT, 2005.
 3.2. Giải phẫu tạo hình
 3.2.1 Khái niệm.
 Giải phẫu tạo hình (GPTH) là cấu trúc cơ thể người nhìn từ góc độ tạo hình.
Nói cách khác, GPTH là môn học về cấu trúc hình thể người, mục đích là để tạo
hình người cho đúng. GPTH cũng được bắt đầu từ các hoạ sĩ bậc thầy thời Phục
hưng: họ đã tìm hiểu, nghiên cứu tỉ lệ cơ thể, cơ, xương người để vẽ và nặn tượng
người cho đúng, cho giống.
 Kiến thức và kỹ năng Giải phẫu tạo hình hỗ trợ thiết thực cho việc học hình
họa nói riêng và sáng tác mỹ thuật nói chung.
 Tham khảo tài liệu, giáo trình cho nội dung này, như :
 - Đinh Tiến Hiếu, Giải phẫu tạo hình (Giáo trình đào tạo giáo viên hệ Cao 
đẳng sư phạm), NXB ĐHSP, 2004.
 - Trần Tiểu Lâm, Đặng Xuân Cường – Luật xa gần và Giải phẫu tạo hình
(Giáo trình đào tạo giáo viên THCS hệ CĐSP) – NXB Giáo dục, 1998.
 - Lê Thanh Lộc (Biên soạn), Giải phẫu học (Hình hoạ căn bản tập12), 
NXBVH – TT, 2003.
 - Lương Xuân Nhị, Giải phẫu tạo hình, NXBMT, 1999.
 100
3.2.2 Một số hình nghiên cứu về cơ thể người
 - Tỉ lệ cơ thể người (giới tính, lứa tuổi) lấy đầu làm đơn vị đo
 101
102
103
104
- So sánh đặc điểm ngoại hình nam, nữ
 - Thể tích và trọng tâm vận 
 động 105
Tai, mắt, mũi ở các góc nhìn khác nhau
 106
107
108
109
110
111
112
113
114
Hướng dẫn học chương 3:
 1. Đọc thêm tài liệu tham khảo, tìm hiểu sâu thêm về:
 - Các nội dung cơ bản của Luật xa gần và Giải phẫu tạo hình
 - Vai trò của luật xa gần, giải phẫu tạo hình trong học tập và sáng tác mỹ thuật
 2. Tập vẽ theo luật xa gần (chất liệu chì đen):
 - Bài 1: vẽ khối lập phương nhìn từ nhiều góc độ (bố cục trên khổ giấy A3)
 - Bài 2: vẽ phong cảnh ( có nhà của, cây cối,; kích thước: bố cục trên khổ 
giấy A3)
 3. Tập vẽ theo các hình giải phẫu người(chất liệu chì đen)
 115

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_nghe_thuat_tao_hinh_phan_2.pdf