Giáo trình Kinh doanh quốc tế (Phần 1)
Khái niệm
Kinh doanh (business) theo cách hiểu thông thường là việc thực hiện các hoạt động sản
xuất, mua bán, trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi. Theo Luật doanh
nghiệp Việt Nam số 60/2005/QH11, kinh doanh được định nghĩa là “việc thực hiện liên tục
một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi„. Qua định nghĩa trên, ta có thể
thấy kinh doanh cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm thu được lợi nhuận từ hoạt động đầu tư đó.
Hoạt động kinh doanh cũng có thể là những hoạt động kinh doanh đơn giản, nhỏ lẻ như một
quán nước, một quán phở bên đường và cũng có thể là những hoạt động kinh doanh quy mô
lớn như một nhà máy sản xuất thép cán, một nhà máy lọc dầu hay một hệ thống siêu thị.
Kinh doanh quốc tế (international business), hiểu đơn giản, là việc thực hiện hoạt động
đầu tư vào sản xuất, mua bán, trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi có liên
quan tới hai hay nhiều nước và khu vực khác nhau. Dựa vào định nghĩa của kinh doanh, ta có
thể định nghĩa Kinh doanh quốc tế là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến thương mại hàng hóa và dịch vụ trên các thị trường
vượt qua biên giới của hai hay nhiều quốc gia vì mục đích sinh lợi. Kinh doanh quốc tế cũng
có thể những hoạt động đơn thuần liên quan tới việc xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ của một công ty. Nhưng cũng có thể kinh doanh quốc tế là những mạng lưới kinh
doanh đa quốc gia, hoặc xuyên quốc gia hoặc trên phạm vi toàn cầu. Những mạng lưới này có
hệ thống quản trị và kiểm soát rất phức tạp mà hoạt động đầu tư vào sản xuất được quyết định
ở một nơi, hệ thống phân phối và tiêu dùng lại được phát triển ở một khu vực khác trên thế
giới.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Kinh doanh quốc tế (Phần 1)
Trung tâm Đào tạo Xuất nhập khẩu - Việt Nam IBC Văn phòng: P306, Tòa nhà 52 Hồ Tùng Mậu, Cầu Giấy, Hà Nội Hotline: 0904.691.29 – 04.668.692.30 Email: vietnamibc@gmail.com Website: Fanpage: https://www.facebook.com/DaotaoXuatnhapkhauIBC Tài liệu SƯU TẦM GIÁO TRÌNH KINH DOANH QUỐC TẾ [ Một trong những xu hướng làm thay đổi toàn bộ đáng kể cục diện thế giới trong suốt hơn nhiều thập kỷ vừa qua chính là tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục của kinh doanh quốc tế. Kinh doanh quốc tế được hiểu là việc ra các quyết định đầu tư trong sản xuất hoặc trao đổi, mua bán và cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên phạm vi vượt qua biên giới của một quốc gia, trên thị trường khu vực và thị trường toàn cầu.] Trung tâm Đào tạo Xuất nhập khẩu - Việt Nam IBC Văn phòng: P306, Tòa nhà 52 Hồ Tùng Mậu, Cầu Giấy, Hà Nội Hotline: 0904.691.29 – 04.668.692.30 Email: vietnamibc@gmail.com Website: Fanpage: https://www.facebook.com/DaotaoXuatnhapkhauIBC P ag e1 LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KINH DOANH QUỐC TẾ 3 I. Kinh doanh quốc tế 3 II. Môi trường kinh doanh quốc tế 4 III. Toàn cầu hóa 6 IV. Mục đích, đối tượng và nội dung nghiên cứu 18 CHƯƠNG 2: NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA CÁC QUỐC GIA 36 I. Môi trường chính trị, môi trường pháp lý 36 II. Môi trường kinh tế 61 III. Môi trường văn hóa 88 CHƯƠNG 3: MÔI TRƯỜNG THƯƠNG MẠI VÀ ĐẦU TƯ TOÀN CẦU 123 I. Môi trường thương mại toàn cầu 123 II. Môi trường đầu tư toàn cầu 175 CHƯƠNG 4: CHIẾN LƯỢC KINH DOANH QUỐC TẾ 200 I. Chiến lược kinh doanh quốc tế 200 II. Các loại hình chiến lược kinh doanh quốc tế 217 III. Cơ cấu tổ chức thiết kế theo chiến lược kinh doanh quốc tế 229 CHƯƠNG 5: CÁC PHƯƠNG THỨC THÂM NHẬP THỊ TRƯỜNG QUỐC TẾ 243 I. Thâm nhập thị trường quốc tế 243 II. Các phương thức thâm nhập thị trường quốc tế 245 III. Lựa chọn phương thức thâm nhập thị trường quốc tế 293 Tài liệu tham khảo: 298 Trung tâm Đào tạo Xuất nhập khẩu - Việt Nam IBC Văn phòng: P306, Tòa nhà 52 Hồ Tùng Mậu, Cầu Giấy, Hà Nội Hotline: 0904.691.29 – 04.668.692.30 Email: vietnamibc@gmail.com Website: Fanpage: https://www.facebook.com/DaotaoXuatnhapkhauIBC P ag e2 LỜI MỞ ĐẦU Một trong những xu hướng làm thay đổi toàn bộ đáng kể cục diện thế giới trong suốt hơn nhiều thập kỷ vừa qua chính là tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục của kinh doanh quốc tế. Kinh doanh quốc tế được hiểu là việc ra các quyết định đầu tư trong sản xuất hoặc trao đổi, mua bán và cung cấp hàng hóa và dịch vụ trên phạm vi vượt qua biên giới của một quốc gia, trên thị trường khu vực và thị trường toàn cầu. Để ra được các quyết định giúp kinh doanh quốc tế thành công, mỗi doanh nghiệp phải có hiểu biết về môi trường kinh doanh quốc tế, đó là sự khác biệt giữa các quốc gia về chính trị, pháp luật, kinh tế và văn hóa, đó là quá trình toàn cầu hóa ngày càng sâu sắc trong hoạt động sản xuất toàn cầu cũng như thị trường toàn cầu. Ngoài ra, việc hiểu biết về các loại hình chiến lược kinh doanh quốc tế và các phương thức thâm nhập thị trường quốc tế cũng giúp cho các doanh nghiệp đưa ra được lựa chọn hoặc quyết định đúng đắn trong hoạt động kinh doanh quốc tế của mình. Các doanh nghiệp Việt Nam ban đầu tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện các hoạt động kinh doanh quốc tế qua hoạt động xuất nhập khẩu, nhưng với trình độ kinh tế ngày càng được nâng cao, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được cải thiện, việc xây dựng và phát triển các hoạt động kinh doanh quốc tế, đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam trong tương lai là xu hướng ngày càng phổ biến. Chính vì vậy, kinh doanh quốc tế là một trong những môn học giúp cung cấp cho các sinh viên cử nhân kinh tế, kinh doanh quốc tế có kiến thức cần thiết và những kỹ năng cơ bản trong kinh doanh quốc tế. Giáo trình Kinh doanh Quốc tế được thiết kế và soạn thảo dựa trên các giáo trình Kinh doanh Quốc tế của Hoa Kỳ, được xuất bản năm 2009 dành cho các chương trình quốc tế, giảng dạy ngoài Hoa Kỳ. Ngoài ra, trong quá trình biên soạn giáo trình, chúng tôi đã chú trọng đến điều kiện và đặc điểm của Việt Nam để đưa vào những nội dung phù hợp và thiết thực. Giáo trình kinh doanh quốc tế bao gồm 5 chương. Tập thể tác giả tham gia biên soạn giáo trình này bao gồm: TS Phạm Thị Hồng Yến – biên soạn Chương 1 và Chương 4; PGS, TS Nguyễn Hoàng Ánh – biên soạn Chương 2 và Chương 5; ThS Vũ Đức Cường – biên soạn Chương 3; và TS Phạm Thị Hồng Yến – Trưởng Bộ môn Kinh doanh Quốc tế làm chủ biên. Bộ môn Kinh doanh Quốc tế xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu trường Đại học Ngoại thương, Ban Lãnh đạo Khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế, Phòng Quản lý Khoa học, Phòng Quản lý Dự án đã chỉ đạo, tạo điều kiện và đóng góp những ý kiến quý báu trong quá trình biên soạn giáo trình này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do đây là lần đầu tiên giáo trình được biên soạn nên chắc sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất mong nhận được những ý kiến nhận xét, đóng ... h Châu Âu là khu vực tiếp nhận FDI Trung tâm Đào tạo Xuất nhập khẩu - Việt Nam IBC Văn phòng: P306, Tòa nhà 52 Hồ Tùng Mậu, Cầu Giấy, Hà Nội Hotline: 0904.691.29 – 04.668.692.30 Email: vietnamibc@gmail.com Website: Fanpage: https://www.facebook.com/DaotaoXuatnhapkhauIBC P ag e1 9 5 lớn nhất với 671 tỷ USD dòng FDI vào. Tuy nhiên, cho tới năm 2004, tổng FDI vào Hoa Kỳ và EU giảm xuống tương ứng là 121 tỷ USD và 165 tỷ USD, phản ánh sự giảm sút trong hoạt động kinh tế. Về mặt lịch sử, Hoa Kỳ đã là một đích đến hấp dẫn cho FDI do có thị trường nội địa lớn và giàu có, nền kinh tế ổn định và năng động, một môi trường chính trị thuận lợi, và mức độ mở của quốc gia đối với FDI. Các nhà đầu tư vào Hoa Kỳ bao gồm các công ty có trụ sở tại Vương quốc Anh, Nhật Bản, Đức, Hà Lan và Pháp. Dòng vốn đầu tư vào Hoa Kỳ tăng lên tới 121 tỷ USD trong năm 2004 và dường như sẽ còn tiếp tục hồi phục. Mặc dù các nước phát triển vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong dòng FDI vào nhưng FDI vào các quốc gia đang phát triển cũng đã gia tăng. Từ năm 1985 đến năm 1990, dòng FDI vào các nước đang phát triển trung bình hàng năm là 27,4 tỷ USD, bằng 17,4% tổng dòng FDI toàn cầu. Trong khoảng từ giữa đến cuối những năm 1990, nhìn chung dòng FDI vào các nước đang phát triển nằm trong khoảng từ 35% đến 40% tổng dòng FDI, trước khi giảm xuống mức khoảng 25% trong những năm 2001-2002 và sau đó lại tăng lên tới 44% trong năm 2004. Phần lớn dòng FDI vào các nước đang phát triển gần đây có đích đến là các nền kinh tế mới nổi ở khu vực Nam Á, Đông Á, và Đông Nam Á. Sự gia tăng này chủ yếu có động cơ là tầm quan trọng ngày càng tăng của Trung Quốc với tư cách là một nước tiếp nhận FDI. Nguyên nhân của luồng đầu tư mạnh mẽ vào Trung Quốc được phân tích trong phần Tâm điểm Quốc gia ở phía sau. Châu Mỹ Latinh nổi lên như một khu vực quan trọng tiếp theo cho dòng FDI vào thế giới thứ ba. Năm 2000, tổng lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực này đạt khoảng 86 tỷ USD, và mức đầu tư này được giữ vững trong năm 2001 trước khi giảm xuống còn 53 tỷ USD trong năm 2002, 44 tỷ USD năm 2003, và tăng trở lại tới 69 tỷ USD trong năm 2004. Phần lớn hoạt động đầu tư này tập trung vào Mexico và Brazil và như một sự đáp lại đối với các cải tổ trong khu vực, bao gồm việc tư nhân hóa các ngành công nghiệp, tự do hóa các quy định quản lý FDI, và tầm quan trọng gia tăng của các khu vực mậu dịch tự do trong khu vực như MERCOSUR và NAFTA. Ngược lại, Châu Phi là nơi nhận được dòng FDI vào thấp nhất trên thế giới, chỉ khoảng 20 tỷ USD trong năm 2004. Sự yếu kém của Châu Phi trong việc thu hút đầu tư một phần phản ánh tình trạng bất ổn về mặt chính trị, các cuộc xung đột vũ trang, và những thay đổi thường xuyên trong chính sách kinh tế của khu vực này. Một cách khác nhằm nghiên cứu tầm quan trọng của dòng FDI vào là biểu diễn nó dưới dạng phần trăm của tổng vốn đầu tư cố định. Tổng vốn đầu tư cố định là tổng lượng vốn đầu tư vào các nhà máy, kho hàng, tòa nhà văn phòng và các hạng mục tương tự. Khi những yếu tố khác không thay đổi, vốn đầu tư vào một nền kinh tế càng gia tăng thì càng hứa hẹn nhiều triển vọng tăng trưởng của quốc gia đó trong tương lai. Xem xét theo cách này thì FDI có thể được coi như một nguồn vốn đầu tư quan trọng và là một nhân tố quyết định đến tốc độ tăng trưởng của một nền kinh tế trong tương lai. Hình 7.3 thể hiện các dòng FDI vào dưới dạng tỷ lệ phần trăm trên tổng vốn đầu tư cố định ở các nền kinh tế phát triển và đang phát triển từ năm 1992 đến năm 2003. Trong suốt giai đoạn 1992-1997, FDI chiếm khoảng 4% tổng vốn đầu tư cố định ở các nước phát triển và 8% ở các nước đang phát triển. Trong giai đoạn 1998- Trung tâm Đào tạo Xuất nhập khẩu - Việt Nam IBC Văn phòng: P306, Tòa nhà 52 Hồ Tùng Mậu, Cầu Giấy, Hà Nội Hotline: 0904.691.29 – 04.668.692.30 Email: vietnamibc@gmail.com Website: Fanpage: https://www.facebook.com/DaotaoXuatnhapkhauIBC P ag e1 9 6 2003, con số này là 12,5% trên toàn thế giới, cho thấy rằng FDI đã trở thành một nguồn vốn đầu tư ngày càng quan trọng trong các nền kinh tế trên thế giới. Những số liệu gộp này không cho thấy được các điểm khác biệt quan trọng giữa các nước. Chẳng hạn như, trong năm 2003, dòng FDI vào chiếm khoảng 75% tổng vốn đầu tư cố định ở Ireland và 20% ở Chilê, nhưng chỉ chiếm 4% ở Ấn Độ và 0,6% ở Nhật Bản. Điều này cho thấy rằng FDI là một nguồn quan trọng của vốn đầu tư và do đó là nhân tố quan trọng của tăng trưởng kinh tế đối với hai quốc gia đầu tiên chứ không phải với hai quốc gia phía sau. Những sự khác biệt này có thể được lý giải bằng một số nguyên nhân, bao gồm sự dễ dàng và độ hấp dẫn đầu tư đã được biết tới của một quốc gia. Khi các quy định nặng nề làm hạn chế các cơ hội cho đầu tư nước ngoài ở những quốc gia như Nhật Bản hay Thái Lan, những quốc gia này có thể làm hại chính mình khi hạn chế khả năng tiếp cận của mình đối với các dòng vốn đầu tư cần thiết. NGU N VỐN FDI Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Hoa Kỳ trở thành nước có lượng vốn FDI đầu tư ra nước ngoài lớn nhất thế giới. Vị trí dẫn đầu này của Hoa Kỳ vẫn được duy trì trong khoảng thời gian cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000. Những nước chủ đầu tư FDI lớn khác bao gồm Anh, Pháp, Đức, Hà Lan và Nhật Bản. Nhóm 6 nước này chiếm khoảng 60% tất cả các dòng FDI ra trên thế giới trong giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2003 và chiếm 63% tổng lượng vốn FDI lũy kế toàn cầu năm 2003. Như được dự báo, chính những nước này cũng chiếm giữ những vị trí hàng đầu trong nhóm các quốc gia có các công ty đa quốc gia lớn nhất thế giới. Trong 100 công ty đa quốc gia lớn nhất thế giới năm 2003, có 27% là các công ty của Hoa Kỳ, 14% của Pháp; 12% của Đức; 12% của Anh và 7% là của Nhật Bản. Nếu xét trên góc độ tổng lượng FDI lũy kế toàn cầu thì 25% lượng vốn này thuộc về các công ty Hoa Kỳ, 14% thuộc các công ty của Anh, 8% thuộc các công ty của Pháp, 8% Đức, 5% của Hà Lan và 4% thuộc về các công ty của Nhật Bản.13 Những quốc gia này luôn nắm vị trí thống trị bởi lẽ chúng là những quốc gia phát triển nhất với nền kinh tế lớn nhất thế giới trong phần lớn giai đoạn hậu chiến và do đó, những quốc gia này trở thành nước chủ nhà của rất nhiều những công ty tư bản hóa nhất và lớn nhất thế giới. Rất nhiều trong số những quốc gia này có lịch sử lâu dài với vai trò của quốc gia thương mại và luôn luôn tìm kiếm những thị trường nước ngoài để mở rộng hoạt động kinh tế của mình. Chính vì vậy, không có đáng ngạc nhiên khi các công ty có trụ sở đóng ở các quốc gia này là những người tiên phong trong các xu hướng đầu tư nước ngoài. HÌNH THỨC FDI: MUA LẠI HAY ĐẦU TƯ M I FDI có thể được tiến hành dưới dạng đầu tư vào một cơ sở hoàn toàn mới, hoặc mua lại hay sáp nhập với một công ty đã có ở nước nhận đầu tư. Dữ liệu cho thấy đa số các hoạt động đầu tư qua biên giới được thực hiện dưới hình thức sáp nhập và mua lại hơn là đầu tư mới. Theo ước tính của Liên hợp quốc, có khoảng từ 40 đến 80% tổng dòng FDI vào dưới dạng sáp nhập và mua lại trong giai đoạn 1998 - 2003. Cụ thể như năm 2001, tổng dòng FDI vào theo hình Trung tâm Đào tạo Xuất nhập khẩu - Việt Nam IBC Văn phòng: P306, Tòa nhà 52 Hồ Tùng Mậu, Cầu Giấy, Hà Nội Hotline: 0904.691.29 – 04.668.692.30 Email: vietnamibc@gmail.com Website: Fanpage: https://www.facebook.com/DaotaoXuatnhapkhauIBC P ag e1 9 7 thức này là 78%, tới năm 2003 là 49%.14 Tuy nhiên, các dòng FDI vào các quốc gia đang phát triển có sự khác biệt rất lớn so với dòng FDI vào các quốc gia phát triển. Chỉ khoảng 1/3 lượng FDI vào các nước đang phát triển là theo hình thức mua lại và sáp nhập qua biên giới. Tỷ lệ sáp nhập và mua lại thấp như trên đơn giản phản ánh thực tế là có ít các công ty mục tiêu để mua lại ở các quốc gia đang phát triển hơn so với ở các nước phát triển. Tại sao các công ty khi quyết định tiến hành FDI lại ưa chuộng hình thức mua lại những tài sản sẵn có hơn là đầu tư mới? Có một số lý do như sau: Thứ nhất, thời gian tiến hành sáp nhập và mua lại rõ ràng ngắn hơn so với đầu tư mới. Đây là một cân nhắc quan trọng trong thế giới kinh doanh hiện đại khi các thị trường phát triển với tốc độ rất nhanh chóng. Có nhiều công ty rõ ràng tin rằng nếu họ không mua lại một công ty mục tiêu đáng mong muốn thì các đối thủ cạnh tranh toàn cầu của họ sẽ thực hiện điều đó. Trường hợp của công ty Cemex đã minh họa cho điều này (xem tình huống mở đầu chương). Cemex là công ty xi măng lớn thứ 3 thế giới và cũng là công ty đa quốc gia lớn nhất Mexico. Sự vươn lên của Cemex tới vị trí này trên trường quốc tế chỉ trong khoảng thời gian chưa đầy một thập kỷ và chủ yếu là nhờ vào hình thức mua lại. Nếu như Cemex dựa vào đầu tư mới thì có lẽ công ty này sẽ không thể trở nên lớn mạnh nhanh chóng như vậy. Thứ hai, các công ty nước ngoài được mua lại bởi lẽ các công ty này sở hữu những tài sản chiến lược có giá trị như sự trung thành với nhãn hiệu, mối quan hệ với khách hàng, thương hiệu hay patăng, các hệ thống phân phối, các hệ thống sản xuất và những tài sản tương tự. Việc mua lại các tài sản có giá trị đó sẽ dễ dàng và có thể ít rủi ro hơn cho nhà đầu tư so với việc tạo lập nên các tài sản đó thông qua đầu tư mới. Việc Cemex mua lại công ty sản xuất xi măng Southland có trụ sở tại Houston với giá 2,5 tỷ đô la Hoa Kỳ là một trong những ví dụ điển hình thể hiện rõ điều này. Cemex mong muốn nhanh chóng thâm nhập vào thị trường xây dựng ở Hoa Kỳ và hệ thống sản xuất và phân phối của Southland đã giúp cho Cemex đạt được mục đích này. Thứ ba, các công ty tiến hành mua lại bởi vì họ tin rằng họ có thể làm tăng tính hiệu quả của các đơn vị được mua lại thông qua chuyển giao vốn, công nghệ hay kĩ năng quản lý. Chúng ta xem xét lại ví dụ của công ty Cemex. Công ty này đã phát triển hệ thống thông tin tốt nhất trong ngành xi măng toàn cầu, hệ thống này đã giúp công ty đáp ứng tốt hơn các nhu cầu của khách hàng (xem chi tiết tại tình huống mở đầu chương). Cemex đã có thể tăng hiệu quả hoạt động của các đơn vị được mua lại, ví dụ như công ty Southland, thông qua việc chuyển giao các bí quyết công nghệ cho các đơn vị này sau khi mua lại. Như vậy, chúng ta có thể thấy có những luận điểm thuyết phục ưa chuộng ủng hộ hoạt động sáp nhập và mua lại so với đầu tư mới. Tuy nhiên, nhiều vụ mua lại và sáp nhập đã không đạt được mức lợi nhuận như dự kiến. SỰ CHUYỂN DỊCH ĐẦU TƯ SANG LĨNH VỰC DỊCH VỤ Trong suốt hai thập kỷ qua, cơ cấu FDI theo lĩnh vực đã chuyển hướng mạnh mẽ từ các ngành công nghiệp khai khoáng và sản xuất sang dịch vụ. Vào năm 1990, chỉ khoảng 47% tổng Trung tâm Đào tạo Xuất nhập khẩu - Việt Nam IBC Văn phòng: P306, Tòa nhà 52 Hồ Tùng Mậu, Cầu Giấy, Hà Nội Hotline: 0904.691.29 – 04.668.692.30 Email: vietnamibc@gmail.com Website: Fanpage: https://www.facebook.com/DaotaoXuatnhapkhauIBC P ag e1 9 8 lượng FDI ra lũy kế là trong các ngành dịch vụ, nhưng đến năm 2003 tỷ lệ này đã tăng lên đến 67%. Chúng ta cũng có thể nhận thấy xu hướng tương tự như vậy trong cơ cấu đầu tư theo hình thức sáp nhập và mua lại qua biên giới, theo đó các ngành dịch vụ đóng vai trò lớn hơn. Cơ cấu vốn FDI vào các ngành dịch vụ cũng thay đổi. Cho đến gần đây, FDI tập trung vào các dịch vụ thương mại và tài chính. Tuy nhiên, những ngành dịch vụ như điện, nước, viễn thông và kinh doanh (như dịch vụ tư vấn công nghệ thông tin) cũng trở nên ngày càng quan trọng. Sự chuyển dịch sang ngành dịch vụ chịu ảnh hưởng của bốn nhân tố sẽ tiếp tục hiện diện một thời gian nữa. Thứ nhất, sự chuyển dịch này phản ánh bước chuyển dịch chung từ các ngành sản xuất sang dịch vụ diễn ra ở rất nhiều các nước phát triển. Đầu những năm 2000, ngành dịch vụ đóng góp tới 72% tổng GDP của những nền kinh tế phát triển và tới 52% của những nền kinh tế đang phát triển. Thứ hai, nhiều ngành dịch vụ không thể được trao đổi trên phạm vi quốc tế bởi lẽ những dịch vụ này cần được tạo ra ở ngay nơi tiêu dùng. Ví dụ như trường hợp của công ty Starbucks. Với hoạt động kinh doanh dịch vụ của mình, Starbucks không thể cung cấp những cốc cà phê sữa nóng cho các khách hàng ở Nhật Bản từ những cửa hàng của mình ở Seattle. Vì vậy, công ty đã phải mở các cửa hàng ở Nhật. FDI là một phương thức cơ bản để các công ty mang các dịch vụ của mình sang thị trường nước ngoài. Thứ ba, nhiều nước đã tự do hóa cơ chế quản lý hoạt động FDI trong ngành dịch vụ. Cuối thập kỷ 1990, WTO đã thiết kế những thỏa thuận mang tính toàn cầu nhằm dỡ bỏ các rào cản đối với hoạt động đầu tư qua biên giới trong các ngành dịch vụ viễn thông và tài chính. Sự tự do hoá này đã tạo điều kiện cho các dòng FDI vào lớn. Sau khi Braxin tiến hành tư nhân hóa công ty viễn thông của nước này vào cuối những năm 1990, đồng thời dỡ bỏ các rào cản đối với hoạt động đầu tư của các chủ đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này, FDI vào lĩnh vực viễn thông của Braxin đã tăng vọt. Cuối cùng, sự phát triển của mạng lưới viễn thông toàn cầu hoạt động trên cơ sở mạng Internet đã cho phép một số các công ty cung cấp dịch vụ tái định vị một số hoạt động sáng tạo có giá trị của mình tại các nước khác nhằm tận dụng các chi phí nhân tố có lợi. Ví dụ như công ty Procter & Gamble đã chuyển một số hoạt động kế toán của mình sang Philipin – là nơi các kế toán viên được đào tạo theo chuẩn mực kế toán của Hoa Kỳ nhưng lại có mức lương thấp hơn rất nhiều. Cũng vì những lý do trên mà Dell đã xây dựng những trung tâm trợ giúp của mình ở Ấn Độ. Tương tự như vậy, cả Microsoft và IBM hiện tại đều có những cơ sở phát triển và thử nghiệm phần mềm ở nước này. Vì thế, mã phần mềm được viết ra trong ngày làm việc ở Microsoft có thể được chuyển ngay sang Ấn Độ để kiểm tra vào thời điểm khi những người viết mã phần mềm ở Microsoft đang ngủ. Như vậy, khi những nhân viên này tới làm việc vào sáng hôm sau thì mã đã được kiểm tra, các lỗi đã được xác định và họ có thể bắt đầu sửa các lỗi đó. Thông qua việc đặt các cơ sở kiểm tra ở Ấn Độ, Microsoft có thể làm việc với đoạn mã của mình trong suốt 24 giờ một ngày, từ đó giúp công ty rút ngắn thời gian phát triển sản phẩm phần mềm mới. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 3: Trung tâm Đào tạo Xuất nhập khẩu - Việt Nam IBC Văn phòng: P306, Tòa nhà 52 Hồ Tùng Mậu, Cầu Giấy, Hà Nội Hotline: 0904.691.29 – 04.668.692.30 Email: vietnamibc@gmail.com Website: Fanpage: https://www.facebook.com/DaotaoXuatnhapkhauIBC P ag e1 9 9 1. Thương mại tự do là gì? Thương mại tự do có công bằng không? 2. Vì sao các chính phủ lại can thiệp vào thương mại quốc tế? 3. Các nguyên tắc hoạt động của tổ chức WTO là gi? Vai trò của tổ chức WTO tới thương mại toàn cầu? 4. Theo bạn, xu hướng sử dụng các rào cản trong thương mại quốc tế như thế nào? 5. Năm 2004, dòng vốn FDI vào Ireland chiếm 24% tổng vốn cố định của quốc gia này, còn dòng vốn vào Nhật Bản chỉ chiếm 0,6%. Hãy cho biết sự khác biệt trong dòng vốn này ở hai nước.
File đính kèm:
- giao_trinh_kinh_doanh_quoc_te_phan_1.pdf