Giải pháp phối hợp giữa cơ sở giáo dục Đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nhân lực trình độ Đại học nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ

Trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo

ra những thay đổi lớn về cung - cầu trong thị trường lao động, để tránh tình trạng thất

nghiệp, dư thừa lao động hoặc lao động không đáp ứng được yêu cầu thay đổi của xã

hội, các nước trên thế giới đang áp dụng nhiều chính sách, hoạch định trong lĩnh vực

giáo dục, đào tạo.

Vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, năng suất lao động thấp đang

là những thách thức của Việt Nam nhằm đáp ứng cho một giai đoạn mới dựa trên nền

tảng khoa học công nghệ 4.0. Trước xu thế máy móc tự động hóa thay thế máy móc

con người, nguồn nhân lực phải được trang bị những kiến thức, kỹ năng phù hợp để

đáp ứng yêu cầu công việc trong tình hình mới. Cơ chế tự chủ trong hoạt động chuyên

môn giúp cơ sở giáo dục đại học chủ động, linh hoạt hơn trong việc lựa chọn phương

pháp, hình thức xây dựng và triển khai thực hiện chương trình đào tạo. Khi đó, hợp tác

giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp càng có ý nghĩa thiết thực góp phần đổi mới

phương thức đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và nhân lực

nhóm ngành Kỹ thuật - Công nghệ (KT-CN) nói riêng. Sự phối hợp này cũng là một

trong những yếu tố cốt lõi đối với việc xây dựng hệ thống giáo dục đại học gắn liền

với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội.

Giải pháp phối hợp giữa cơ sở giáo dục Đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nhân lực trình độ Đại học nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ trang 1

Trang 1

Giải pháp phối hợp giữa cơ sở giáo dục Đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nhân lực trình độ Đại học nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ trang 2

Trang 2

Giải pháp phối hợp giữa cơ sở giáo dục Đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nhân lực trình độ Đại học nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ trang 3

Trang 3

Giải pháp phối hợp giữa cơ sở giáo dục Đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nhân lực trình độ Đại học nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ trang 4

Trang 4

Giải pháp phối hợp giữa cơ sở giáo dục Đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nhân lực trình độ Đại học nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ trang 5

Trang 5

Giải pháp phối hợp giữa cơ sở giáo dục Đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nhân lực trình độ Đại học nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ trang 6

Trang 6

Giải pháp phối hợp giữa cơ sở giáo dục Đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nhân lực trình độ Đại học nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ trang 7

Trang 7

Giải pháp phối hợp giữa cơ sở giáo dục Đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nhân lực trình độ Đại học nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ trang 8

Trang 8

Giải pháp phối hợp giữa cơ sở giáo dục Đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nhân lực trình độ Đại học nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ trang 9

Trang 9

Giải pháp phối hợp giữa cơ sở giáo dục Đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nhân lực trình độ Đại học nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 18 trang baonam 03/01/2022 8780
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giải pháp phối hợp giữa cơ sở giáo dục Đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nhân lực trình độ Đại học nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp phối hợp giữa cơ sở giáo dục Đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nhân lực trình độ Đại học nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ

Giải pháp phối hợp giữa cơ sở giáo dục Đại học với các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng nhân lực trình độ Đại học nhóm ngành kỹ thuật - công nghệ
 417 
GIẢI PHÁP PHỐI HỢP GIỮA CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC 
VỚI CÁC DOANH NGHIỆP, ĐƠN VỊ SỬ DỤNG NHÂN LỰC 
TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC NHÓM NGÀNH KỸ THUẬT - CÔNG NGHỆ 
Hoàng Công Dụng 
Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và Cung ứng nhân lực, Bộ GD&ĐT 
Nguyễn Thế Hà 
Cục Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội 
1. Đặt vấn đề 
Trong bối cảnh hiện nay, đặc biệt khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo 
ra những thay đổi lớn về cung - cầu trong thị trường lao động, để tránh tình trạng thất 
nghiệp, dư thừa lao động hoặc lao động không đáp ứng được yêu cầu thay đổi của xã 
hội, các nước trên thế giới đang áp dụng nhiều chính sách, hoạch định trong lĩnh vực 
giáo dục, đào tạo. 
Vấn đề thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, năng suất lao động thấp đang 
là những thách thức của Việt Nam nhằm đáp ứng cho một giai đoạn mới dựa trên nền 
tảng khoa học công nghệ 4.0. Trước xu thế máy móc tự động hóa thay thế máy móc 
con người, nguồn nhân lực phải được trang bị những kiến thức, kỹ năng phù hợp để 
đáp ứng yêu cầu công việc trong tình hình mới. Cơ chế tự chủ trong hoạt động chuyên 
môn giúp cơ sở giáo dục đại học chủ động, linh hoạt hơn trong việc lựa chọn phương 
pháp, hình thức xây dựng và triển khai thực hiện chương trình đào tạo. Khi đó, hợp tác 
giữa các cơ sở đào tạo và doanh nghiệp càng có ý nghĩa thiết thực góp phần đổi mới 
phương thức đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và nhân lực 
nhóm ngành Kỹ thuật - Công nghệ (KT-CN) nói riêng. Sự phối hợp này cũng là một 
trong những yếu tố cốt lõi đối với việc xây dựng hệ thống giáo dục đại học gắn liền 
với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội. 
2. Nội dung 
2.1. Cơ sở pháp lý đối với tự chủ trong hoạt động chuyên môn của cơ sở 
giáo dục đại học 
Từ năm 2005, tại Điều 60 của Luật giáo dục đã có quy định về quyền tự chủ và 
tự chịu trách nhiệm của trường trung cấp, trường cao đẳng, trường đại học. Trong đó 
có các nội dung (1) Xây dựng chương trình, giáo trình, kế hoạch giảng dạy, học tập 
đối với các ngành nghề được phép đào tạo; (2) Xây dựng chỉ tiêu tuyển sinh, tổ chức 
tuyển sinh, tổ chức quá trình đào tạo, công nhận tốt nghiệp và cấp văn bằng. 
Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học đã được nêu rõ tại Luật giáo dục đại 
học 2012, sửa đổi bổ sung năm 2018. Cụ thể tại khoản 1 Điều 32: 
Cơ sở giáo dục đại học tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh 
vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác 
quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo dục đại học. Cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền 
tự chủ ở mức độ cao hơn phù hợp với năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định 
chất lượng giáo dục. 
 418 
Về chính sách giáo dục, Khoản 4 Điều 12 cũng nêu rõ: Gắn đào tạo với nghiên 
cứu và triển khai ứng dụng khoa học và công nghệ; đẩy mạnh hợp tác giữa cơ sở giáo 
dục đại học với tổ chức nghiên cứu khoa học và với doanh nghiệp. 
Khoản 6 Điều 12: Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có quyền và trách nhiệm tiếp 
nhận, tạo điều kiện để người học, giảng viên thực hành, thực tập, nghiên cứu khoa học 
và chuyển giao công nghệ, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. 
Điều 13 Nghị định số 99/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 nêu chi tiết quyền tự 
chủ về học thuật và hoạt động chuyên môn của cơ sở giáo dục đại học cũng như 
quyền tự chủ về bộ máy, nhân sự, tài chính và tài sản. 
Khoản 1 Điều 13: Quyền tự chủ về học thuật và hoạt động chuyên môn 
a) Được quyền ban hành và tổ chức thực hiện các quy định nội bộ về hoạt động 
tuyển sinh, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế phù hợp 
quy định của pháp luật; 
b) Xác định, công bố công khai phương thức, chỉ tiêu tuyển sinh theo quy định 
của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trừ lĩnh vực quốc phòng, an ninh thực hiện theo quy định 
của cơ quan quản lý trực tiếp; 
c) Quyết định phương thức tổ chức và quản lý đào tạo đối với các trình độ, hình 
thức đào tạo; xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo phù hợp với quy 
định về Khung trình độ quốc gia Việt Nam, về chuẩn chương trình đào tạo, bảo đảm 
không gây phương hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, lợi ích cộng đồng, không 
xuyên tạc lịch sử, ảnh hưởng xấu đến văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục và đoàn 
kết các dân tộc Việt Nam, hòa bình, an ninh thế giới, không có nội dung truyền bá tôn 
giáo; biên soạn, lựa chọn, thẩm định, phê duyệt và sử dụng tài liệu giảng dạy, giáo 
trình giáo dục đại học (trừ các môn học bắt buộc); tổ chức thực hiện, đánh giá chất 
lượng các chương trình đào tạo của giáo dục đại học; thiết kế mẫu, in phôi, cấp phát, 
quản lý văn bằng, chứng chỉ phù hợp với quy định của pháp luật; 
d) Quyết định đào tạo từ xa, liên kết đào tạo trình độ đại học theo hình thức vừa 
làm vừa học với cơ sở giáo dục trong nước đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; 
đ) Quyết định hoạt động khoa học và công nghệ theo quy định tại Điều 16 Nghị 
định này; quyết định các hoạt động hợp tác quốc tế quy định tại các khoản 3, 5 và 6 
Điều 44 của ... ĩ, ưu tiên gửi giảng viên đi đào tạo ở các nước 
tiên tiến trên thế giới. Trong công tác tuyển sinh, các cơ sở giáo dục đại học cần được 
tự chủ, chủ động phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng thuộc Bộ GDĐT trong 
toàn bộ quá trình tuyển sinh. Kinh phí cho việc đào tạo tại nước ngoài sẽ được thực 
hiện theo nguyên tắc chia sẻ giữa ngân sách nhà nước cấp, chi phí do cơ sở giáo dục 
chi cho người học và chi phí khác do người học tự túc. Mặt khác, cần chọn lọc, đào tạo 
những sinh viên giỏi, yêu nghề để tạo nguồn nhân lực GV cho các cơ sở đào tạo. Các 
cơ sở GDĐH cần tự chủ trong việc xây dựng đề án, đề ra các giải pháp cụ thể nhằm 
thu hút cá nhân có trình độ tiến sĩ đang công tác ở các trường đại học nước ngoài hoặc 
đang làm việc ngoài các cơ sở đào tạo khác đến làm việc tại đơn vị mình. Cần có sự ưu 
đãi, tạo điều kiện thuận lợi đối với các tiến sĩ đang công tác tại cơ sở về nhiều mặt 
như: Tăng thu nhập, ưu tiên về đề tại dự án, tạo điều kiện thuận cho các nhóm nghiên 
cứu tiến hành nghiên cứu khoa học, tạo điều kiện cho các tiến sĩ tham gia các hội 
thảo/hội nghị quốc tế, có thời nghiên cứu ở nước ngoài; có sự cân nhắc ưu tiên trong 
việc bổ nhiệm các chức danh nhà giáo (giáo sư, phó giáo sư), vinh danh những cống 
hiến của các tiến sĩ. 
 430 
2.4.3. Nhóm giải pháp về cơ chế phối hợp trong đào tạo và tuyển dụng của 
doanh nghiệp 
Nhằm phát huy, tận dụng hiệu quả những tác động tích cực và hạn chế tối đa 
những tác động tiêu cực từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đến nguồn nhân lực nói 
chung và nguồn nhân lực ngành KT-CN nói riêng thì mối quan hệ hợp tác giữa các 
trường đại học và doanh nghiệp luôn được nhấn mạnh là yếu tố cốt lõi trong xây dựng 
hệ thống GDDH gắn liền với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội. 
Để làm được điều này, cần tập trung vào một số giải pháp sau: 
Thứ nhất, các cơ sở GDĐH phối hợp với các doanh nghiệp đào tạo, phát triển 
nguồn nhân lực nhóm ngành KT-CN, chủ động phối hợp với các doanh nghiệp xây 
dựng, phát triển chương trình đào tạo với thời lượng sinh viên thực tập, thực hành tại 
doanh nghiệp không ít hơn 50% tổng thời gian thực hiện chương trình đào tạo. 
Thứ hai, doanh nghiệp có thể hỗ trợ trong việc đổi mới phương pháp dạy và học 
theo hướng phát huy tư duy sáng tạo và năng lực tự học của người học, nâng cao kỹ 
năng thực hành cho học viên. Gắn kết các đơn vị nghiệp vụ với Nhà trường, cập nhật 
thực tiễn công tác; tiếp tục và thường xuyên phối hợp, tổ chức hội thảo khoa học với 
các doanh nghiệpnhằm đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo chuyên ngành đi vào 
chiều sâu và phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp. 
Thứ ba, doanh nghiệp cũng hỗ trợ nhà trường trong việc mở rộng trang bị kiến 
thức pháp luật quốc tế, xu hướng nghề nghiệp; đồng thời tập trung trang bị các kiến 
thức, kỹ năng mềm về tin học, Internet, tiếng Anh. Những kiến thức này giúp cho sinh 
viên sau khi tốt nghiệp chủ động hơn trong thực tế. Trong đó, cần chú ý là kiến thức về 
ngoại ngữ với tiếng Anh là căn bản cần đảm bảo thông thạo 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, 
viết về các vốn từ giao tiếp phổ thông cũng như các vốn từ vựng chuyên ngành. 
Thứ tư, cần huy động sự tham gia nhiều hơn nữa của các những người làm việc 
lâu năm có kinh nghiệm đang công tác, làm việc tại các doanh nghiệp có sử dụng sinh 
viên ngành KT-CN. Sự gắn kết này sẽ giúp quá trình xây dựng chương trình đào tạo 
đảm bảo được tính cập nhật, tính thực tiễn và phù hợp với yêu cầu thực tế đáp 
ứng nguyên lý trong giáo dục đại học: Học đi đôi với hành, lý thuyết gắn liền với thực 
tiễn và đào tạo phải xuất phát và gắn với thực tiễn của doanh nghiệp và xã hội. Bên 
cạnh đó, cần triển khai việc đánh giá, kiểm định chương trình đào tạo với sự tham gia 
của các nhà khoa học. Đánh giá chương trình đào tạo là một khâu quan trọng trong quá 
trình đào tạo. Đây là quá trình đơn vị thực hiện chương trình đào tạo xem xét, đánh giá 
trên cơ sở tiêu chuẩn đánh giá chương trình đào tạo của Nhà nước để báo cáo về tình 
trạng chất lượng, hiệu quả hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, nhân lực, cơ sở vật 
chất và các vấn đề liên quan khác thuộc chương trình đào tạo làm cơ sở để các cơ sở 
GDDHtiến hành điều chỉnh các nguồn lực và quá trình thực hiện nhằm đáp ứng được 
các mục tiêu đã đề ra và hoàn thành sứ mạng của cơ sở giao dục đại học trong công tác 
giáo dục, đào tạo. 
Thứ năm, doanh nghiệp tích cực hơn trong việc phản hồi về nội dung, chương 
trình đào tạo của các cơ sở giáo dục đại học, chất lượng nhân lực được đào tạo. Đây là 
là chủ trương, quy định của Bộ GDĐT đối với các cơ sở GDĐH nhằm nâng cao chất 
lượng giáo dục, đào tạo. 
Trên cơ sở hướng dẫn của Bộ GDĐT và tham khảo hoạt động lấy ý kiến phản hồi 
của doanh nghiệp, các cơ sở GDDH cần căn cứ cụ thể vào đặc điểm của từng ngành cụ 
 431 
thể trong nhóm ngành KT-CN để đưa ra các hình thức lấy ý kiến phản hồi từ người học 
cho phù hợp, hiệu quả. Đồng thời, có kế hoạch và lộ trình khoảng 2 năm tổ chức thẩm 
định, lấy ý kiến của các chuyên gia, người lao động lâu năm, có kinh nghiệm trong các 
doanh nghiệp để đánh giá và bổ sung, cập nhật mới các học phần đáp ứng, phù hợp với 
yêu cầu thực tiễn của các doanh nghiệp. 
Thứ sáu, cần phải xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ sở đào tạo với đơn vị sử 
dụng trong quá trình đào tạo thông qua một số các hoạt động: 
- Chủ động phối hợp, đề xuất với các cơ sở đào tạo tiến hành tổ chức tham 
quan, thực hành thực tập tại doanh nghiệp cho cả giảng viên và sinh viên.Đảm bảo 
100% sinh viên được đi thực tập tại doanh nghiệp và phải hướng đến các doanh nghiệp 
có công nghệ kỹ thuật tiên tiến, kỷ luật nghiêm, sinh viên được tham gia trực tiếp vào 
chu trình sản xuất, kinh doanh của đơn vị nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng, rèn luyện 
ý thức, tác phòng công nghiệp. 
- Phối hợp với các cơ sở đào tạo tổ chức các chương trình hướng nghiệp, tuyển 
dụng nhân sự, bồi dưỡng kỹ năng mềm và đẩy mạnh sáng tạo, khởi nghiệp cho sinh 
viên. 
- Chủ động, hỗ trợ cho các cơ sở đào tạo trong việc thiết kế chương trình đào 
tạo, tổ chức đào tạo ngắn hạn với nhà trường theo các đơn hàng cụ thể gắn với tài trợ 
thiết bị và trao tặng học bổng cho sinh viên. 
- Cùng với nhà trường tìm kiếm các đơn hàng, tuyển chọn, bồi dưỡng đưa sinh 
viên đi học tập, thực tập và làm việc ở nước ngoài, tập trung vào các quốc gia có nền 
tảng khoa học kỹ thuật phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Mỹ. 
3. Kết luận và khuyến nghị 
Nguồn nhân lực trình độ đại học nhóm ngành KT-CN là một trong những yếu 
tố quan trọng để đáp ứng xu hướng phát triển của xã hội, đáp ứng yêu cầu công nghiệp 
hóa - hiện đại hóa đất nước. Giáo dục và GDDHViệt Nam cần có có sự chuyển biến 
tích cực theo hướng mở, ứng dụng thành tựu của khoa học công nghệ, khoa học giáo 
dục, công nghệ số, nắm bắt xu hướng phát triển của thị trường lao động, việc làm. Đây 
là yếu tố then chốt tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ khả năng tiếp cận và là 
một yêu cầu cấp thiết đối với ngành giáo dục hiện nay. Trên thực tế chưa có nhiều 
nghiên cứu gắn kết nhu cầu thị trường lao động và kế hoạch đào tạo, trong thời gian 
tới cần thực hiện nhiều nghiên cứu gắn kết giữa đào tạo và nhu cầu xã hội về việc sử 
dụng lao động đào tạo ở các cấp trình độ. 
2.1. Đối với Nhà nước, các bộ ngành Trung ương 
- Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật trong GDĐH và cải cách thủ tục hành 
chính. 
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu lớn về GDDHmột cách đồng bộ, trong đó có 
hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu việc làm của sinh viên sau tốt nghiệp, làm cơ sở 
cho việc nghiên cứu, quản lý và giao các đơn vị chức năng và các đơn vị chuyên môn 
khai thác và sử dụng vào mục đích quản lý, nghiên cứu và hỗ trợ phát triển GDĐH nói 
chung, nâng cao chất lượng đào tạo nhóm ngành KT-CN nói riêng, đồng thời giúp 
định hướng lựa chọn ngành học và việc làm cho người học. 
- Giao nhiệm vụ cho 02 đề tài nghiên cứu cấp quốc gia: (1) Nghiên cứu dự báo 
nhu cầu nguồn nhân lực làm cơ sở xây dựng chương trình đào tạo đến năm 2025; (2) 
 432 
Nghiên cứu mô hình trường đại học đáp ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0: Mô 
hình “Đại học 4.0” giúp cho việc phân tích, dự báo nhu cầu nguồn nhân lực trong bối 
cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và sự thích ứng của các cơ sở GDĐH trong việc 
đáp ứng nhu cầu này. 
- Phối hợp với Ngân hàng thế giới để triển khai xây dựng Kế hoạch tổng thể phát 
triển giáo dục đến năm 2030, tầm nhìn 2035. Trong đó tiến hành những nghiên cứu dự 
báo về những kỹ năng, ngành nghề mới trọng tâm trong tương lai để đáp ứng sự thay đổi 
của khoa học công nghệ và phương thức sản xuất do cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 
mang lại. 
- Phối hợp với Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) xây dựng và triển khai chương 
trình Thu hẹp khoảng cách kỹ năng việc làm. Trong đó giải quyết những khoảng trống 
kỹ năng giữa đào tạo và yêu cầu của thị trường lao động đối với nhân lực trình độ đại 
học nhóm ngành KT-CN. 
- Chỉ đạo các cơ sở GDĐH đổi mới công tác xây dựng chương trình đào tạo, 
trong đó có sự tham gia của các nhà quản lý, các nhà sử dụng lao động, doanh nghiệp. 
Yêu cầu các cơ sở GDĐH tiến hành nghiên cứu, khảo sát nhu cầu của thị trường lao 
động đối với các ngành nghề mở mới mà không chỉ dựa vào năng lực của cơ sở đào 
tạo. 
2.2. Đối với các cơ sở GDDH đào tạo nhóm ngành Kỹ thuật - Công nghệ 
- Đầu tư nâng cao năng lực cho các trung tâm hỗ trợ nghề nghiệp, dự báo 
nguồn nhân lực của mình. Trung tâm của các cơ sở GDĐH là đơn vị mấu chốt, nền 
tảng để góp phần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về GDĐH thông qua 
khảo sát, thu thập và cung cấp thông tin thị trường lao động, xu hướng nghề nghiệp, 
tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp. 
- Xây dựng nội dung chương trình đào tạo gắn liền với yêu cầu của thị trường 
lao động. Yêu cầu khi xây dựng chương trình đào tạo cần gắn nội dung chương trình 
với đòi hỏi của thị trường lao động là nguyên tắc khi xây dựng chương trình. Tuy 
nhiên, việc thực hiện nguyên tắc này lại chưa tốt vì bản thân cơ sở GDDHchưa nắm 
bắt được nhu cầu của doanh nghiệp, hay những thay đổi nhanh nhạy trên thị trường lao 
động. Chương trình đào tạo cần được cập nhật và linh hoạt nhằm bắt kịp xu hướng của 
thị trường lao động và yêu cầu sử dụng nhân lực trình độ đại học nhóm ngành KT-CN 
hiện tại và trong tương lai. Chương trình đào tạo mang tính liên ngành hoặc xuyên 
ngành, ngành mang tính dẫn dắt thị trường lao động, những ngành phù hợp và phục vụ 
cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Thực hiện quy trình đào tạo cần tăng cường 
cung cấp kiến thức, kỹ năng thực tiễn cho sinh viên. Lồng ghép việc trang bị kỹ năng 
việc làm trong các học phần thuộc chương trình đào tạo. Lồng ghép các kỹ năng công 
nghệ số và kỹ năng chuyển đổi trong các học phần thuộc chương trình đào tạo nhóm 
ngành KT-CN. 
- Tăng cường hợp tác giữa cơ sở GDĐH với doanh nghiệp, đơn vị tuyển dụng 
và sử dụng lao động nhóm ngành KT-CN. Muốn chương trình đào tạo gắn liền với yêu 
cầu của thị trường lao động , rất cần sự tham gia sâu rộng của doanh nghiệp, đơn vị 
tuyển dụng và sử dụng lao động vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo cũng 
như toàn bộ các khâu của quá trình đào tạo. Thêm vào đó, sự hợp tác này cũng là một 
trong những yếu tố quan trọng giúp sinh viên có nhiều cơ hội việc làm hơn, giúp sinh 
viên tiếp cận gần hơn với thị trường và nhà tuyển dụng tiềm năng. 
 433 
2.4. Đối với đơn vị, doanh nghiệp sử dụng nhân lực nhóm ngành Kỹ thuật - 
Công nghệ 
- Các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng nhân lực nhóm ngành KT-CN cần 
nâng cao nhận thức về phối hợp, gắn kết với cơ sở GDDH trong quá trình xây dựng, 
triển khai thực hiện chương trình giáo dục, tuyển dụng lao động. Việc phối hợp này vừa 
là thực hiện trách nhiệm xã hội, vừa giúp giảm thiểu chi phí, khai thác tối đa thế mạnh 
của từng bên, đem lại lợi ích hài hòa cho các bên tham gia, hướng đến nâng cao chất 
lượng đào tạo. 
- Bố trí nhân sự, thời lượng và thời điểm thích hợp cho hoạt động thực hành của 
sinh viên phù hợp với đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho hoạt 
động thực hành, thực tập của sinh viên đạt kết quả tốt nhất. 
- Cử chuyên gia, kỹ sư tham gia vào quá trình xây dựng chương trình đào tạo 
của nhà trường, hướng dẫn thực hành, thực tập và trực tiếp giảng dạy một số môn 
trong chương trình đào tạo. 
- Hỗ trợ nhân lực, cơ sở vật chất và tham gia vào hoạt động nghiên cứu khoa 
học của các cơ sở giáo dục. Các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng nhân lực nhóm 
ngành KT-CN tham gia hoạt động nghiên cứu sẽ góp phần nâng cao chất lượng sản 
phẩm khoa học, giúp sản phẩm khoa học mang tính thực tiễn hơn, tăng cơ hội khai 
thác và sử dụng chúng vào quá trình sản xuất, kinh doanh của chính đơn vị, doanh 
nghiệp tham gia nghiên cứu. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 29 
của Trung ương Đảng về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục (2013-2018). 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Báo cáo tổng kết năm học và nguồn dữ liệu thống kê của 
Vụ Giáo dục Đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo. 
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017, 2018, 2019). Báo cáo và nguồn dữ liệu thống kê 
Kết quả khảo sát và công khai tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp năm 
2017, 2018, 2019 (sinh viên tốt nghiệp năm 2016,2017,2018). 
4. Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai- Vấn đề và 
giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia. 
5. Lại Thị Thu Hường và Lê Thị Thu Phương (2019), Đánh giá thực trạng tuyển 
dụng và sử dụng nhân lực trình độ đại học nhóm ngành kỹ thuật – công nghệ, Kỷ 
yếu hội thảo khoa học “Mô hình dự báo nhu cầu đào tạo trình độ đại học nhóm 
ngành Kỹ thuật - Công nghệ đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 tại Việt 
Nam”. 
6. Nguyễn Thị Ngọc Quyên (2019), Hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp bài 
toán xác định cung – cầu trong kỷ nguyên số 4.0, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Mô 
hình dự báo nhu cầu đào tạo trình độ đại học nhóm ngành Kỹ thuật - Công nghệ 
đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 tại Việt Nam”. 
7. Đỗ Thị Thanh Toàn (2018), Một số vấn đề về dự báo nhu cầu đào tạo nguồn nhân 
lực ở các trường đại học địa phương. Tạp chí Giáo dục, số 434, tr. 35-39. 
 434 
8. Trần Quốc Toản (2018), Một số vấn đề về cơ chế tự chủ của các trường đại học, 
Hội đồng Lý luận Trung ương. 
9. Viện Khoa học ứng dụng Trường Đại ĐH Công nghệ TP. Hồ Chí Minh 
(HUTECH) (2019), Chia sẽ hoạt động kết nối doanh nghiệp của viện khoa học 
ứng dụng Hutech, Kỷ yếu hội thảo khoa học “Mô hình dự báo nhu cầu đào tạo 
trình độ đại học nhóm ngành Kỹ thuật - Công nghệ đến năm 2025, tầm nhìn đến 
năm 2030 tại Việt Nam”. 
10. Sabine Pfeiffer (2015), Effects of Industry 4.0 on vocational education and 
training. University of Hohenheim, pages 5-25. Institute of Technology 
Assessment. 
11. Tessaleno Devezas, João Leitão, Askar Sarygulov, In “Industry 4.0: 
Entrepreneurship and Structural Change in the New Digital Landscape”, Springer 
International Publishing AG, Switzerland. 

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_phoi_hop_giua_co_so_giao_duc_dai_hoc_voi_cac_doanh.pdf