Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở huyện Quỳnh Lưu

Quỳnh Lưu là địa phương có nhiều thế mạnh phát triển kinh

tế toàn diện của tỉnh Nghệ An. Sau khi Chính phủ điều chỉnh

một phần địa giới hành chính và dân số của huyện Quỳnh Lưu

để thành lập thị xã Hoàng Mai, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao

động của huyện đã có sự thay đổi. Tuy vậy, cơ cấu kinh tế và

cơ cấu lao động của huyện chuyển dịch chậm. Đến nay, nông

nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao. Lao động nông nghiệp vẫn dư

thừa nhiều, trong khi đó lao động công nghiệp, dịch vụ còn

thiếu. Lao động phổ thông là phổ biến, lao động qua đào tạo

chiếm tỷ trọng thấp. Trong khi đó, để thực hiện mục tiêu phát

triển kinh tế nhanh và bền vững, nguồn nhân lực chất lượng

cao có vai trò rất quan trọng. Huyện cần phải có chiến lược và

các biện pháp hữu hiệu để phát triển và sử dụng nguồn lực chất

lượng cao. Bài viết tập trung phân tích thực trạng chất lượng

nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao; đề xuất các

giải pháp đào tạo và sử dụng có hiệu quả nguồn lực này trong

quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện.

Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở huyện Quỳnh Lưu trang 1

Trang 1

Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở huyện Quỳnh Lưu trang 2

Trang 2

Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở huyện Quỳnh Lưu trang 3

Trang 3

Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở huyện Quỳnh Lưu trang 4

Trang 4

Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở huyện Quỳnh Lưu trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 5960
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở huyện Quỳnh Lưu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở huyện Quỳnh Lưu

Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở huyện Quỳnh Lưu
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 6/2015 [30]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
Quỳnh Lưu có tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông - lâm - thủy sản cao
Giải pHáp NâNG CAo CHất lượNG NGuồN NHâN lựC 
n PGS. TS. Nguyễn Đăng Bằng - Đại học Vinh
Hoàng Văn Bộ - Huyện ủy Quỳnh Lưu
Quỳnh Lưu là địa phương có nhiều thế mạnh phát triển kinh
tế toàn diện của tỉnh Nghệ An. Sau khi Chính phủ điều chỉnh
một phần địa giới hành chính và dân số của huyện Quỳnh Lưu
để thành lập thị xã Hoàng Mai, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao
động của huyện đã có sự thay đổi. Tuy vậy, cơ cấu kinh tế và
cơ cấu lao động của huyện chuyển dịch chậm. Đến nay, nông
nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng cao. Lao động nông nghiệp vẫn dư
thừa nhiều, trong khi đó lao động công nghiệp, dịch vụ còn
thiếu. Lao động phổ thông là phổ biến, lao động qua đào tạo
chiếm tỷ trọng thấp. Trong khi đó, để thực hiện mục tiêu phát
triển kinh tế nhanh và bền vững, nguồn nhân lực chất lượng
cao có vai trò rất quan trọng. Huyện cần phải có chiến lược và
các biện pháp hữu hiệu để phát triển và sử dụng nguồn lực chất
lượng cao. Bài viết tập trung phân tích thực trạng chất lượng
nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao; đề xuất các
giải pháp đào tạo và sử dụng có hiệu quả nguồn lực này trong
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
1. Thực trạng chất lượng nguồn
nhân lực ở huyện Quỳnh Lưu hiện nay
Kinh tế huyện Quỳnh Lưu trong những
năm qua phát triển toàn diện, đồng đều:
tốc độ tăng trưởng GDP bình quân là
11,5%/ năm; thu nhập bình quân đầu
người năm 2014 đạt 24,5 triệu đồng/năm;
mức sống của nhân dân được cải thiện
đáng kể; các lĩnh vực văn hóa - xã hội có
bước phát triển khá đã tạo điều kiện nâng
cao mức hưởng thụ các giá trị văn hóa tinh
thần của nhân dân. Sự thành công đó một
phần quan trọng là do nguồn nhân lực
đóng góp. 
- Số lượng và cơ cấu nguồn nhân lực: So
sánh trong tỉnh, Quỳnh Lưu là huyện có dân
số đông. Theo số liệu điều tra năm 2009, dân
số toàn huyện là 288.220 người, trong đó
dân số nữ là 145.124 người (chiếm 50,53%).
Số người trong độ tuổi lao động tăng bình
quân 1%/năm. Lao động nam chiếm 52%,
lao động nữ chiếm 48%. Lực lượng lao động
trong lĩnh vực nông nghiệp đang có xu
hướng giảm, bình quân 1%/năm. Trong khi
đó, lao động trong lĩnh vực công nghiệp -
xây dựng, dịch vụ tăng lên tương ứng. Sự
chuyển dịch cơ cấu lao động như trên thể
hiện sự tiến bộ trong phân bổ lao động xã
hội gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy
vậy, nhìn một cách tổng quan, lực lượng lao
động hàng năm cung vượt quá cầu. Dân số
sống ở nông thôn từ 65-70% tổng dân số
toàn huyện.
ở HUYỆN QUỳNH LưU
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 6/2015 [31]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
trên 30%. Thời gian nhàn rỗi trong lĩnh vực nông
nghiệp tăng lên nhờ sử dụng máy móc và khoa học
kỹ thuật. Một sự thật là lao động nông thôn di cư
theo mùa vụ khá nhiều. Hàng năm vào dịp hè, lao
động nông nghiệp tràn về các khu du lịch để mở quán
hàng buôn bán, phục vụ du khách. Thu nhập của họ
3 tháng hè nhiều hơn thu nhập cả năm trong nông
nghiệp. 
Đối với nguồn nhân lực công chức, viên chức từ
huyện đến xã có bước phát triển cả về số lượng và
chất lượng, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính
trị của địa phương. Tổng số cán bộ, công chức cơ
quan Đảng, Chính quyền và Đoàn thể huyện có 167
người, trong đó, trình độ chuyên môn thạc sỹ có 12
người (tỷ lệ 7,1%); đại học có 140 người (tỷ lệ
83,8%); trung cấp có 5 người (tỷ lệ 3%). Trình độ cử
nhân, cao cấp chính trị có 40 người (tỷ lệ 23,95%);
trung cấp chính trị có 27 người (tỷ lệ 16,2%).
Đội ngũ cán bộ xã có trình độ chuyên môn đại học
và cao đẳng trở lên cao hơn mức bình quân chung
của tỉnh. Số cán bộ chưa qua đào tạo chỉ chiếm 6%.
Số đã qua đào tạo đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương.
Đội ngũ công chức xã cơ bản đạt chuẩn trình độ
chuyên môn theo quy định của Bộ Nội vụ và cao hơn
bình quân chung của tỉnh, trong đó 29,9% có trình
độ đại học, 69,3% trình độ cao đẳng và trung cấp. 
Theo tính toán của chúng tôi, nguồn nhân lực chất
lượng cao ở huyện chỉ chiếm dưới 5% tổng số lao
động. Số này chủ yếu đang làm việc tại các cơ quan
dịch vụ hành chính công. Một số khác giữ chức cán
bộ lãnh đạo, quản lý. Trong số này, trình độ năng lực
- Về chất lượng nguồn nhân lực: Trong
những năm qua, bình quân hàng năm có
5.200 lao động qua đào tạo nghề. Tỷ lệ lao
động qua đào tạo tăng dần từ 32,7% năm
2010 lên 46,9% hiện nay, trong đó, đào tạo
các ngành nghề thuộc lĩnh vực công nghiệp -
xây dựng và dịch vụ chiếm 69,8%; lao động
được đào tạo các nghành nghề thuộc lĩnh vực
nông - lâm - thủy sản chiếm 30,2%. Con số
này cao hơn so với mức bình quân chung của
cả nước.
- Về trình độ nguồn nhân lực: Tính đến
30/12/2014, toàn huyện có 180.145 lao động
trong độ tuổi, chiếm 63% dân số toàn huyện,
trong đó, số lao động qua đào tạo chiếm
46,9%. Cơ cấu ngành nghề đào tạo đang
chuyển hướng theo thị trường lao động.
Người lao động không chạy theo bằng cấp
đơn thuần. Họ ý thức được việc đào tạo phải
gắn với sử dụng.
Nhìn chung, một số lao động sau đào tạo
đã phát huy tốt nghề được học, tự tìm việc
làm, có thu nhập, biết tổ chức lao động có thu
nhập cao hơn. Khảo sát 931 lao động được
đào tạo nghề ngắn hạn theo chương trình
1956/TTg trên địa bàn 10 xã thì có 726 lao
động đã phát huy tốt nghề được đào tạo,
chiếm tỷ lệ 78%; có 82 lao động sau khi đào
tạo đã chuyển sang làm nghề khác, chiếm tỷ
lệ 8,8%; có 123 lao động chưa phát huy được
nghề đào tạo, chiếm tỷ lệ 13,2%. Lao động
làm việc trong khu vực phi chính thức chiếm
Bảng 1: Cơ cấu lao động phân theo ngành
Đơn vị tính: Người
Năm 2010 2011 2012 2013 2014
1. Nông nghiệp 132.310 131.910 130.875 135.411 137.345
2. Công nghiệp - Xây dựng 29.149 30.803 31.801 23.412 26.297
Khai khoáng 8.480 8.559 8.645 8.232 9.776
Chế biến, chế tạo 10.049 11.038 11.824 10.255 11.521
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt 298 309 319 115 118
Cung cấp nước 42 46 49 51 56
Xây dựng 10.230 10.851 10.964 4.759 4.826
3. Dịch vụ 24. 681 26.633 28.986 20.516 21.383
Nguồn: Số liệu của UBND huyện Quỳnh Lưu
(Ghi chú: Số liệu năm 2013-2014 sau khi điều chỉnh 10 xã để thành lập thị xã Hoàng Mai)
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 6/2015 [32]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
nghiệp tăng chậm. Công nghiệp địa phương phát triển
tự phát, thiếu quy hoạch, hoặc có quy hoạch nhưng
quy hoạch treo. Ví dụ, Khu công nghiệp Hoàng Mai
đã được quy hoạch cách đây 15 năm, cơ sở hạ tầng
đã được xây dựng, song vẫn còn thiếu các nhà đầu tư
lớn. Khu Kinh tế Đông Hồi đã được quy hoạch nhưng
vẫn chỉ nằm trên giấy. Vì thế, lực lượng lao động vẫn
đóng băng trong ngành nông nghiệp, việc chuyển
dịch lao động giữa nông nghiệp sang công nghiệp và
dịch vụ diễn ra quá chậm. Mặt khác, hiện nay có xu
thế giảm dần diện tích đất sản xuất nông nghiệp, dẫn
đến làm tăng số lao động nông nhàn trong nông
nghiệp và giảm thu nhập của nhân dân. Ngay trong
ngành nông nghiệp, muốn tái cơ cấu thì rất cần nguồn
nhân lực chất lượng cao, nhưng việc phát triển nông
nghiệp theo chiều sâu vẫn khó khăn. Làng rau Quỳnh
Lương được cả nước biết đến cách đây 20 năm vậy
mà đến nay vẫn chưa thể trở thành vùng rau sạch của
tỉnh. Nông dân vẫn tự phát chạy theo cung cầu thị
trường dẫn đến rau giá rẻ mà vẫn thừa. Nếu như
huyện tập trung ứng dụng khoa học - công nghệ, đầu
tư đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để trồng
rau sạch xuất khẩu thì giá trị tăng lên hàng chục lần,
mà lại không ô nhiễm môi trường. 
- Giáo dục và đào tạo vẫn được coi là cỗ máy cái
đào tạo nguồn nhân lực, thế nhưng đào tạo ra không
có nơi làm việc. Doanh nghiệp cấp huyện nhỏ bé
không thể đầu tư, thu hút nhân lực chất lượng cao. Vì
thế, nguồn nhân lực có trình độ đại học trở lên chủ
yếu làm việc trong ngành Giáo dục và Y tế, số còn lại
là công chức nhà nước, công an, bộ đội làm công ăn
thực tế chưa đồng đều, cơ cấu chưa hợp lý.
Một số có bằng cấp như thạc sỹ, tiến sỹ nhưng
làm việc không đúng chuyên môn, đào tạo
không bài bản, thiếu kiến thức thực tế, tư duy
sáng tạo, kinh nghiệm công tác. Trong các
doanh nghiệp và làng nghề, công nhân trung
cấp nghề và lao động thủ công chủ yếu chưa
qua đào tạo. Một bộ phận cao đẳng nghề khi
tốt nghiệp không tìm được việc làm tại địa
phương, phải tìm đến các thành phố lớn hoặc
ra nước ngoài làm việc.
2. Một số hạn chế và khó khăn trong việc
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực huyện
Quỳnh Lưu
- Tốc độ tăng dân số của huyện còn ở mức
cao, nhất là các xã ở vùng biển, vùng giáo,
trong khi đó tốc độ phát triển kinh tế hàng
năm và cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật chưa
đồng bộ, chưa tạo áp lực nhu cầu học tập,
chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Chất lượng
dân số còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất
lượng cao, tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh
dưỡng còn chiếm tỷ lệ cao (14%). 
- Hiện nay, cơ cấu ngành nghề trên địa bàn
huyện bất hợp lý, chưa phát huy được lợi thế
của huyện. Do sản xuất, kinh doanh bất hợp
lý nên sản phẩm khó tiêu thụ. Điều đó làm cho
nguồn nhân lực có hiện tượng vừa thừa, vừa
thiếu. Nền nông nghiệp sạch, chất lượng cao
chưa hình thành, giá trị gia tăng trong nông
Bản đồ quy hoạch Khu công nghiệp Đông Hồi
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 6/2015 [33]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
triển các cơ sở đào tạo nghề, gắn việc đào tạo nghề
với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của các địa phương. Ký hợp đồng, liên kết
với các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề có uy tín
nhằm đào tạo nhân lực chất lượng cho các ngành có
nhu cầu nhân lực trình độ cao như xây dựng, giao
thông, cơ khí, công nghệ thông tin, viễn thông, tài
chính ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, đáp ứng
yêu cầu thị trường lao động hiện tại và tương lai.
Tích cực tổ chức các trường, lớp đào tạo ngắn hạn
cho lao động nông nghiệp bị thu hồi đất, lao động
muốn chuyển nghề, lao động xuất khẩu. Quan tâm
tới việc chăm sóc sức khỏe của người lao động,
tuyên truyền, khuyến khích, động viên người lao
động có ý thức trong việc học tập, nâng cao kiến
thức, tay nghề cho bản thân. Đây là vấn đề vừa giúp
người lao động tìm được nhiều cơ hội việc làm cho
chính mình, và dần khắc phục được tình trạng yếu
kém trong chất lượng nguồn lao động của huyện.
- Nhóm giải pháp thứ ba: Gắn đào tạo với sử
dụng hợp lý nguồn nhân lực có chất lượng. Yêu cầu
đặt ra đối với Quỳnh Lưu hiện nay là khai thác hiệu
quả nguồn nhân lực hiện có. Quản lý và sử dụng đội
ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, chuyên gia, thợ lành
nghề. Cần thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc, công khai
việc tuyển chọn lao động nhằm thu hút người tài,
người có năng lực, bố trí đúng người đúng việc. Đặc
biệt quan tâm đến chất lượng lao động ở các xã vùng
sâu, vùng giáo, vùng ven biển, vùng có làng nghề.
- Nhóm giải pháp thứ tư: Xây dựng môi trường
sống và làm việc hấp dẫn. Xây dựng Quỳnh Lưu
thành nơi đáng sống, làm việc và cống hiến. Phải
bố trí đúng người, đúng việc trong mỗi cơ quan, tổ
chức; kết hợp đa dạng hóa công việc để mỗi người
có thể giỏi một việc nhưng biết nhiều việc. Thực
hiện công bằng trong đánh giá năng lực, và đề bạt
cán bộ. Phải khuyến khích bằng vật chất và tinh
thần đối với lao động giỏi. Tích cực thu hút lực
lượng lao động chất lượng cao cho khu vực nông
nghiệp và nông thôn, để khai thác các lợi thế của
huyện, nhất là kinh tế biển. Một thực tế hiện nay là
nhiều con em của huyện tốt nghiệp các trường đại
học lớn không muốn trở về quê làm việc. Hầu hết
sinh viên ra trường muốn ở lại các thành phố, thị
xã, khu đô thị dễ tìm kiếm việc làm. Vì vậy, phải
đẩy mạnh công tác đào tạo nghề tại chỗ cho người
lao động; đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa,
dịch vụ ở nông thôn; có chính sách ưu đãi để thu
hút lực lượng lao động có chất lượng về nông thôn,
phục vụ nông nghiệp.
lương. Đó là chưa nói đến chất lượng giáo dục
còn nhiều hạn chế, một số đào tạo ra không
làm được việc. Một số chấp nhận làm việc trái
ngành nghề để có việc làm. Một số khác muốn
vào nhà nước để có công việc ổn định. Tỷ lệ
lao động qua đào tạo vốn đã thấp, lại mất cân
đối ngành nghề; số lao động tham gia học
nghề chưa phù hợp với cơ cấu và định hướng
phát triển kinh tế theo vùng và huyện; có sự
tách rời giữa đào tạo và sử dụng, giữa đào tạo
và việc làm.
- Nhận thức về yêu cầu chất lượng nguồn
nhân lực của một bộ phận cán bộ cấp ủy đảng,
chính quyền, các tổ chức đoàn thể và nhân dân
chưa đầy đủ; chưa thực sự quan tâm công tác
tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán
bộ, nên nguồn cán bộ ở các xã vùng đặc thù,
vùng giáo còn mỏng. Một bộ phận cán bộ
công chức, viên chức chưa đáp ứng được yêu
cầu về phẩm chất, năng lực, tinh thần trách
nhiệm, kỹ năng nghề nghiệp, trình độ quản lý
kinh tế, quản lý nhân sự, tin học, ngoại ngữ. 
3. Một số giải pháp 
Để xây dựng và phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao, về lâu dài phải có giải pháp
mang tính dài hạn, căn cơ. Chúng tôi mạnh
dạn đề xuất các giải pháp sau đây.
- Nhóm giải pháp thứ nhất: Muốn phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao, trước
hết cần phải tạo ra nhu cầu về nguồn nhân
lực đó. Muốn thúc đẩy nhu cầu nhân lực chất
lượng cao cần phải xây dựng các mô hình sản
xuất lớn trong nông nghiệp và công nghiệp
dịch vụ ở địa phương; tái cấu trúc lại ngành
nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia
tăng; quy hoạch và xây dựng các cụm công
nghiệp hỗ trợ ở các xã như Quỳnh Châu,
Quỳnh Hoa, Tân Thắng, Tiến Thủy, Quỳnh
Thọ, Quỳnh Nghĩa phục vụ cho công nghiệp
ở Nghi Sơn (Thanh Hóa), thành phố Vinh;
khuyến khích, tạo điều kiện hình thành và
phát triển các doanh nghiệp đủ mạnh, đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp để thực hiện công
nghiệp hóa nông thôn.
- Nhóm giải pháp thứ hai: Xã hội hóa
trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nhà nước tạo lập hành lang pháp lý thuận lợi,
cơ chế khuyến khích đào tạo nhân lực chất
lượng cao cung cấp cho các ngành cần thiết,
cấp bách. Huy động nguồn vốn đầu tư, phát
Tạp chí
KH-CN Nghệ AnSỐ 6/2015 [34]
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
huyện; gắn chặt chẽ giữa chiến
lược phát triển nguồn nhân lực với
giáo dục và đào tạo. Cần đánh giá
đúng nhu cầu về số lượng, chất
lượng nguồn nhân lực của từng
ngành, từng xã thị trấn, để xây
dựng kế hoạch đào tạo nguồn nhân
lực sát thực tế.
4. Kết luận
Quỳnh Lưu là huyện lớn của
tỉnh Nghệ An, nguồn nhân lực
tương đối dồi dào, nhân dân có
truyền thống cần cù, chịu khó, hiếu
học. Tuy nhiên, tỷ lệ nguồn nhân
lực chất lượng cao còn thấp. Đội
ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật viên
giỏi, lao động lành nghề còn ít.
Chính sách thu hút nguồn nhân lực
chất lượng cao chưa phát huy hiệu
quả. Vì vậy, không tránh khỏi tình trạng lao động
vừa thừa, vừa thiếu. Những tồn tại, bất cập trên có
nhiều nguyên nhân cả về chủ quan và khách quan. 
Vấn đề đặt ra trong việc nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực hiện nay là phải đẩy mạnh nâng cao
chất lượng giáo dục phổ thông, đào tạo nghề, đào
tạo bồi dưỡng cán bộ; nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn nhân lực hiện có; xây dựng môi trường tâm
lý, xã hội đồng thuận để thu hút lao động chất lượng
cao phục vụ phát triển nông nghiệp ở nông thôn. 
Quỳnh Lưu phải đi lên từ thế mạnh nông nghiệp,
kết hợp công nghiệp chế biến, dịch vụ; hiện đại hóa
nông nghiệp, dựa vào nông nghiệp để phát triển
công nghiệp dịch vụ; tập trung phát triển nguồn
nhân lực có chất lượng cho nông nghiệp, nâng cao
năng suất và giá trị sản phẩm nông nghiệp, từ đó rút
lao động ra khỏi nông nghiệp để phát triển các
ngành, nghề khác là nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến
năm 2020./.
- Nhóm giải pháp thứ năm: Tăng cường
sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, nâng cao
năng lực quản lý của chính quyền về phát
triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng
cao nhận thức trong các ngành, địa phương,
cán bộ, đảng viên và nhân dân về yêu cầu,
nội dung nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực hiện nay. Xác định rõ nguồn nhân lực là
tài nguyên quý giá nhất, phải làm cho mọi
người thấy rõ vai trò và trách nhiệm trong
việc đào tạo và sử dụng nhân lực, xem đây là
trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của
các cơ sở đào tạo, doanh nghiệp và của mỗi
người lao động. 
- Nhóm giải pháp thứ sáu: Cần xây dựng
được chiến lược và dự báo nhu cầu, xu
hướng phát triển nguồn nhân lực gắn với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Nghị quyết số 08-NQ/TU ngày 13/3/2012 của Tỉnh ủy Nghệ An về phát triển và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2020.
4. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Quỳnh Lưu lần thứ XXVI, nhiệm kỳ 2010-2015.
5. Thực trạng phát triển bền vững ở Việt Nam, Báo cáo quốc gia tại Hội nghị cấp cao của Liên hợp Quốc về
phát triển bền vững (RIO + 20), tháng 5/2012.
6. Võ Xuân Tiến, Một số vấn đề về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, Tạp chí Khoa học và Công nghệ,
Đại học Đà Nẵng - số 5 (40)/2010.
Làng rau Quỳnh Lương - Quỳnh Lưu

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_nang_cao_chat_luong_nguon_nhan_luc_o_huyen_quynh_l.pdf