Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về tự chủ tại các trường đại học công lập đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho
các đơn vị giáo dục đại học công lập là phù hợp với chủ trương, đường lối mở cửa hội
nhập của Đảng và Nhà nước ta. Thời gian qua, việc thực hiện cơ chế tự chủ tại các
trường đại học công lập ở Việt Nam đã được triển khai thí điểm và có những kết quả
ban đầu. Tuy nhiên, để phát huy cơ chế này một cách hiệu quả nhất thì cần tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ bằng những giải pháp thiết thực hơn nữa. Vậy nên trao quyền tự chủ cho
các cơ sở giáo dục đại học như thế nào và thực hiện quyền tự chủ ra sao để bảo đảm
mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu quả chất lượng của giáo dục đại học đồng thời
vẫn bảo đảm các vấn đề về an sinh xã hội như giá học phí và khả năng tiếp cận thị
trường việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp là vấn đề cần phải được thảo luận bàn
rõ. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về cơ chế
tự chủ tại các trường đại học công lập thời gian qua. Bài viết đề xuất một số giải pháp
đảm bảo thực hiện pháp luật về tự chủ đại học tại các trường đại học công lập ở Việt
Nam đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về tự chủ tại các trường đại học công lập đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
349 GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TỰ CHỦ TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG LẬP ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Nguyễn Văn Hưng Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị giáo dục đại học công lập là phù hợp với chủ trương, đường lối mở cửa hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Thời gian qua, việc thực hiện cơ chế tự chủ tại các trường đại học công lập ở Việt Nam đã được triển khai thí điểm và có những kết quả ban đầu. Tuy nhiên, để phát huy cơ chế này một cách hiệu quả nhất thì cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ bằng những giải pháp thiết thực hơn nữa. Vậy nên trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học như thế nào và thực hiện quyền tự chủ ra sao để bảo đảm mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu quả chất lượng của giáo dục đại học đồng thời vẫn bảo đảm các vấn đề về an sinh xã hội như giá học phí và khả năng tiếp cận thị trường việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp là vấn đề cần phải được thảo luận bàn rõ. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về cơ chế tự chủ tại các trường đại học công lập thời gian qua. Bài viết đề xuất một số giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về tự chủ đại học tại các trường đại học công lập ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. 1. Đặt vấn đề Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách đối với tự chủ đại học. Quyền tự chủ của trường đại học được ghi nhận từ năm 2005 trong Luật Giáo dục với các nội dung tự chủ tương tự như ở các nước phát triển. Tuy nhiên, để phát huy cơ chế này một cách hiệu quả nhất thì cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ bằng những giải pháp thiết thực hơn nữa. Vậy nên trao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học như thế nào và thực hiện quyền tự chủ ra sao để bảo đảm mục đích cuối cùng là nâng cao hiệu quả chất lượng của giáo dục đại học đồng thời vẫn bảo đảm các vấn đề về an sinh xã hội như giá học phí và khả năng tiếp cận thị trường việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp là vấn đề cần phải được thảo luận bàn rõ. Chính vì vậy, Luật Giáo dục Đại học (Luật số 34/2018/QH14) sửa đổi bổ sung đã chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7. Những điều chỉnh, sửa đổi bổ sung trong Luật mới được đánh giá là khá mạnh dạn nhằm gỡ các nút thắt đối với lộ trình tự chủ đại học của Việt Nam. Để đưa luật giáo dục vào cuộc sống thì cần có giải phấp đảm bảo thực hiện pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục là cần thiết. 2. Một số cơ sở lý luận về tự chủ Đại học 2.1. Tự chủ đại học Tự chủ đại học (cách dịch sát hơn: tự trị đại học – university autonomy, autonomie des universités) là quyền của cơ sở giáo dục đại học[5] quyết định sứ mạng và chương trình hoạt động của mình, cách thức và phương tiện thực hiện sứ mạng và chương trình hoạt động đó, đồng thời tự chịu trách nhiệm trước công chúng và pháp luật về mọi quyết định cũng như hoạt động của mình. Đây là hình thức quản trị thích hợp với những tổ chức không thuộc hệ thống hành chính (hệ thống có cấp trên cấp dưới; cấp dưới do cấp trên bổ nhiệm và phải làm theo quyết định của cấp trên.)[2]. 350 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học đề cập đặc biệt đến vấn đề tự chủ của cơ sở giáo dục đại học. Quyền tự chủ đại học được coi là đã được thể hiện ở nhiều điều khoản của Luật như Hội đồng trường, Hội đồng quản trị, Hiệu trưởng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục, tuyển sinh, chương trình giáo dục, văn bằng, học phí, lệ phí tuyển sinh"So với Luật GDĐH 2012, Luật GDĐH sửa đổi 2018 đã thay thế 4 nhóm chính sách lớn. Trong đó, chính sách lớn nhất, bao trùm lên toàn bộ các vấn đề được sửa đổi, bổ sung là mở rộng tự chủ và nâng cao tự chủ của toàn hệ thống. Cùng với nâng cao tự chủ là những chính sách đi kèm, như: Đổi mới quản trị đại học, kiện toàn hội đồng trường, chú trọng phát triển hệ thống, khuyến khích các trường kết hợp với nhau thành các đại học lớn để cộng lực và hợp tác phát triển". 2.2. Các nội dung tự chủ đại học A. Tự chủ về tổ chức (organisational autonomy), tức là tự quyết định cơ cấu tổ chức và quá trình ra quyết định của mình, cụ thể là về[7]: Người đứng đầu: tiêu chuẩn, thủ tục lựa chọn, nhiệm kỳ và việc miễn nhiệm người đứng đầu; Hội đồng quản trị: chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; cơ cấu, tiêu chuẩn, thủ tục lựa chọn thành viên trong trường, ngoài trường; nhiệm kỳ và việc miễn nhiệm thành viên; Các đơn vị đào tạo, nghiên cứu khoa học, dịch vụ và hành chính; Tính chất vì lợi nhuận/không vì lợi nhuận của nhà trường. B. Tự chủ về tài chính (financial autonomy), tức là độc lập điều hành và phân bổ ngân quỹ của mình, cụ thể là quyết định: Thời hạn của một vòng tài trợ công; loại tài trợ công; Việc vay vốn và duy trì thặng dư; Việc điều hành cơ sở vật chất; Học phí của sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh trong nước và nước ngoài. C. Tự chủ về nhân sự (staf ... về giáo dục; định rõ thẩm quyền và trách nhiệm giữa cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan chỉ đạo, cơ quan chủ quản, người đứng đầu cơ sở giáo dục. Hiện nay, vai trò chỉ đạo của Bộ GD&ĐT trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý chưa rõ ràng, tạo nên nhiều tầng nấc quản lý trung gian, trùng lặp trách nhiệm khiến cơ sở giáo dục có điều kiện ỷ lại, dựa dẫm vào sự lãnh đạo, chỉ đạo của cơ quan chức năng của Đảng, cơ quan quản lý nhà nước, làm suy giảm sự năng động, sáng tạo của cơ quan giáo dục. Mặt khác, do không rõ chức năng, nhiệm vụ của mình nên một số cơ quan chủ quản đã lạm dụng quyền hạn dẫn đến hạn chế sự phát triển của cơ sở giáo dục, trở thành lực lượng kìm hãm, gây khó khăn cho cơ sở giáo dục đại học, đồng thời do thiếu sự giải thích về cơ chế và quy chế hoạt động nên vấn đề quan hệ giữa cơ quan chủ quản và cơ sở giáo dục chưa được điều chỉnh theo yêu cầu phát triển giáo dục hiện nay. Như vậy, cần hình thành sớm một quy chế làm việc rõ ràng, cụ thể giữa Bộ GD&ĐT với ban ngành hữu quan liên quan đến quản lý nhà nước về giáo dục, giữa cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương và địa phương, cơ quan quản lý và cơ quan chủ quản. Cơ chế này phải đảm bảo sự điều hành thống nhất, có khả năng giải quyết nhanh và dứt điểm các vụ việc, đồng thời liên tục kiểm soát được hoạt động giáo dục, tránh hiện tượng đánh trống bỏ dùi, dễ làm khó bỏ, đùn đẩy công việc cho nhau, trách nhiệm không rõ ràng. Cơ chế này cần phải sớm được cụ thể hóa thành văn bản pháp quy, làm chỗ dựa pháp lý cho việc vận hành toàn bộ bộ máy lãnh đạo, quản lý giáo dục. 4.4. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lập pháp về giáo dục Trong những năm qua, thực hiện hợp tác quốc tế với các tổ chức chính phủ và phi chính phủ khu vực và quốc tế đã đem lại cho Việt Nam những kết quả đáng kể như nguồn lực, phương pháp thực thi chính sách và pháp luật giáo dục về tự chủ tại các trường Đại học công lập; kinh nghiệm của các nước trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập. Mỗi quốc gia có điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội khác nhau nên có sự khác nhau trong việc lập pháp và tổ chức thực hiện pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật giáo dục về tự chủ tại các trường Đại học công lập của nước ta cần đáp 357 ứng yêu cầu thu hẹp sự khác biệt về môi trường pháp lý trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do giáo dục với các quốc gia trong khu vực và thế giới. Do vậy, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực lập pháp về về tự chủ tại các trường Đại học công lập vừa là hoạt động thực hiện nội dung quản lý nhà nước về giáo dục vừa là giải pháp thúc đẩy nhanh tiến trình chuyển hóa các điều ước quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia nói chung và pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập nói riêng, nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp phần tạo môi trường pháp lý thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế, phát triển đất nước. Trước hết, cần tổ chức thực hiện tốt các văn bản quốc tế quan trọng có liên quan như: Hiện nay, khi đề cập đến quyền được giáo dục, Công ước về Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (CESCR, 1966) và Công ước quốc tế về Quyền trẻ em (CRC, 1989) là các điều ước được viện dẫn rộng rãi nhất. Trong số 193 thành viên của LHQ, 163 quốc gia đã phê chuẩn CESCR (1966) và gần như tất cả các quốc gia đó cũng là thành viên của CRC (1989)[7]... Ngoài ra, cần chủ động xây dựng các kế hoạch khảo sát kinh nghiệm lập pháp về giáo dục ở một số nước trên thế giới; tham dự các hội nghị quốc tế liên quan đến giáo dục. 4.5. Hoàn thiện chế độ chính sách và đầu tư thích hợp đối với lĩnh vực giáo dục Chế độ, chính sách đối với lĩnh vực giáo dục trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường là một vấn đề lớn cần được xem xét, giải quyết cả về lý luận và thực tiễn. Thời gian qua, chúng ta đã có những bước chuyển biến nhất định trong việc thực hiện chế độ chính sách mềm dẻo đối với giáo dục. Hiện nay, Nhà nước vẫn đầu tư khá lớn cho giáo dục, đối với nâng cao hiệu quả chi ngân sách giáo dục, cần duy trì quy mô chi NSNN ở mức 20% tổng chi cân đối NSNN của quốc gia, tuy nhiên, cần xác định tỷ lệ chi cho GDĐT phù hợp với chi NSNN ở từng địa phương. Đồng thời, cần điều chỉnh cơ cấu chi NSNN cho giáo dục giữa các bậc học; xây dựng tiêu chí ưu tiên phân bổ chi đầu tư cho ngành giáo dục tại địa phương; hoàn thiện hệ thống định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên NSNN cho giáo dục; nâng cao chất lượng thiết kế và tăng cường giám sát, đánh giá các chương trình mục tiêu đầu tư cho lĩnh vực giáo dục. 4.6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra Công tác thanh, kiểm tra giúp phát hiện sai phạm của các đối tượng bị kiểm tra; bất cập, chồng chéo trong văn bản quản lý nhà nước, qua đó xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật, góp phần tăng cường hiệu lực công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục. Nếu các cuộc thanh tra đảm bảo tính chính xác, trung thực; kết luận thanh tra cụ thể, sát thực, đảm bảo tính pháp lý cao sẽ có tác động tốt đến nhiều mặt như: lập lại kỷ cương trong hoạt động giáo dục, nâng cao nhận thức về việc chấp hành pháp luật, giúp các đối tượng chấn chỉnh sai phạm, rút kinh nghiệm và chấp hành nghiêm, từ đó có những biện pháp khắc phục, sửa chữa kịp thời, không khiếu nại về kết luận thanh tra. Trong những năm qua, công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực giáo dục đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn một số hạn chế: thứ nhất, với đặc điểm là cơ quan quản lý nhà nước đối với lĩnh vực GD&ĐT, một lĩnh vực mang tính nhạy cảm, phức tạp nên khi giải quyết cần xem xét ở nhiều góc độ, gây khó khăn trong việc xử lý; thứ hai, hệ thống văn bản pháp lý còn chưa hoàn chỉnh, đặc biệt là Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra GD&ĐT là 358 yếu tố hạn chế về mặt pháp lý nên hoạt động thanh tra và xử lý vi phạm còn gặp nhiều khó khăn hoặc không xử lý được; thứ ba, quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động giáo dục còn gặp nhiều khó khăn, kéo dài do vụ việc được phản ánh chưa có kết luận của cơ quan chức năng; thứ tư, một số trường đại học còn thiếu cán bộ làm công tác thanh tra nội bộ, hoặc hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ nên việc triển khai thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch và đột xuất còn gặp nhiều khó khăn, không đảm bảo về thời gian và kế hoạch đã đề ra. Mặt khác, lực lượng thanh tra của một số trường đại học được điều động đi làm công tác khác nên việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác thanh tra kế cận gặp nhiều khó khăn và khó chủ động trong công việc; thứ năm, công tác xử lý sau thanh tra, kiểm tra nhiều khi chỉ mang tính hình thức, chưa đủ mạnh để răn đe đối tượng vi phạm; thứ sáu, kinh phí và phương tiện phục vụ công tác kiểm tra còn hạn chế, phần nào ảnh hưởng đến tiến độ công tác thanh, kiểm tra. Để khắc phục những hạn chế trên, ngành thanh tra cần làm tốt một số nhiệm vụ sau: (i) hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về thanh tra, thanh tra nội bộ trước mắt cần xây dựng Nghị định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra GD&ĐT phù hợp giai đoạn đổi mới; (ii) chủ động nắm tình hình, phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập để phục vụ công tác thanh tra đột xuất; chủ động hơn trong việc xây dựng kế hoạch thanh tra, đặc biệt qua các cuộc thanh tra cần rút ra được các bài học kinh nghiệm, phát hiện được những lỗ hổng trong hệ thống pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập để kịp thời bổ sung; (iii) tăng cường theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý sau thanh tra; quan tâm đến việc “thanh tra lại” theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010; (iv) thực hiện tốt công tác tiếp dân định kỳ và tiếp dân thường xuyên, giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến giáo dục; giải quyết kịp thời các vụ việc mới phát sinh, nhất là các vụ việc khiếu nại đông người, vượt cấp; khắc phục việc chuyển đơn lòng vòng, hướng dẫn không đúng quy định; giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng, bức xúc, kéo dài; (v) tập trung tuyên truyền, phổ biến công tác phòng, chống tham nhũng; thanh tra, kiểm tra, xác minh làm rõ các đơn thư tố cáo tham nhũng, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng phát hiện, xử lý tham nhũng. (vi) củng cố tổ chức, bộ máy thanh tra nội bộ tại các trường đại học; xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ những người làm công tác thanh tra. Đội ngũ thanh tra, kiểm tra phải có năng lực tri thức, phẩm chất đạo đức và phẩm chất chính trị mới đảm nhiệm được công việc khó khăn này. 2.7. Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giáo dục Thực tế hiện nay, không chỉ người dân mà ngay cả một số “cán bộ quản lý giáo dục, nhà giáo vẫn còn hiện tượng chưa nắm vững nội dung hoặc nhận thức chưa đầy đủ về Luật giáo dục 2019, Luật giáo dục đại học sửa đổi 2018 pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập. Ngoài ra, từ cuộc sống hàng ngày, chính các cơ sở giáo dục, cán bộ quản lý và nhà giáo có thể phát hiện ra các điều khoản pháp luật còn thiếu sót hoặc đã lỗi thời để kiến nghị các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập, nâng cao vai trò của các cấp chính quyền, các cơ quan giáo dục, các tổ chức đoàn thể và các thành viên trong xã hội về đảm bảo và tôn trọng quyền tự do giáo dục. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập cần chú trọng vào một số vấn đề sau: 359 Thứ nhất, đưa chương trình giáo dục quyền con người, quyền công dân trong đó có quyền tự do học tập vào hệ thống giáo dục nhà nước, lồng ghép vào nội dung giáo dục đạo đức, giáo dục công dân, giáo dục pháp luật. Đặc biệt, phải chú trọng đưa chương trình giáo dục quyền công dân trong đó có quyền tự do giáo dục vào các khóa tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ chủ chốt các ban, ngành từ trung ương đến địa phương, trước hết là lực lượng làm công tác quản lý nhà nước về giáo dục, một mặt phải nắm vững và thực hiện nghiêm túc các quy định của Nhà nước về những vấn đề có liên quan đến hoạt động giáo dục; mặt khác, phải làm nòng cốt trong việc tuyên truyền, phổ biến và tổ chức thực hiện tốt pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập. Thứ hai, đa dạng hóa công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập bằng nhiều hình thức như: thông qua phương tiện thông tin đại chúng; tuyên truyền miệng pháp luật (mở lớp tập huấn, nói chuyện chuyên đề, lồng ghép việc tuyên truyền pháp luật giáo dục về tự chủ tại các trường Đại học công lập vào một buổi họp); hoạt động của câu lạc bộ pháp luật, hoạt động dịch vụ pháp lý của các trung tâm, công ty luật; phát hành các ấn phẩm, tài liệu hỏi đáp giới thiệu văn bản pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập. Đồng thời phải xác định đúng đắn các hình thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập với từng đối tượng để đạt hiệu quả cao. Thứ ba, để công tác giáo dục, phổ biến pháp luật nói chung, pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập nói riêng đạt hiệu quả cao, cần củng cố, kiện toàn đội ngũ tuyên truyền viên; định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, tập huấn kiến thức, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cho tuyên truyền viên. Thứ tư, tăng cường hoạt động thông tin, tuyên truyền pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập trên các phương tiện thông tin đại chúng. So với các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác thì phổ biến, giáo dục pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng có các lợi thế là: nhanh chóng, kịp thời, phổ cập (do đối tượng phục vụ là đông đảo công chúng). Tuỳ theo đối tượng phục vụ, các nội dung tuyên truyền pháp luật giáo dục về tự chủ tại các trường Đại học công lập có thể bao gồm: (i) Giới thiệu chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và các văn bản quy phạm pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập. Đối với việc tuyên truyền các văn bản pháp luật mới ban hành, tuỳ từng vị trí, tầm quan trọng của văn bản pháp luật, các phương tiện thông tin đại chúng cần vào cuộc từ khâu soạn thảo, phản ánh các ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân vào dự thảo luật, đăng các bài giới thiệu, tìm hiểu, phân tích, giải thích nội dung dự thảo các văn bản pháp luật; (ii) Phản ánh thực tiễn thi hành và áp dụng pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập thông qua các vụ việc cụ thể liên quan đến pháp luật hoặc thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước. 5. Kết luận Tự chủ đại học mở ra rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít các khó khăn thách thức đối với các trường đại học. Vấn đề đặt ra là các trường đại học cần phải nỗ lực, thay đổi để đạt được các mục tiêu cũng như tồn tại và ngày càng phát triển. Bên cạnh đó, các trường phải chịu trách nhiệm trong việc đáp ứng các tiêu chí chất lượng đào tạo theo quy định và công khai minh bạch, khẳng định được vị thế, thương hiệu. Qua phản ánh thực tiễn thi hành và áp dụng pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập, sẽ phát hiện những bất cập trong các văn bản pháp luật để kiến nghị cơ quan nhà 360 nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung. Đồng thời, cũng qua thực tiễn cuộc sống, các phương tiện thông tin đại chúng cần phát hiện những vấn đề còn bỏ ngỏ, thiếu sự điều chỉnh của pháp luật để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện; Thực hiện giải đáp, tư vấn pháp luật nói chung, pháp luật về tự chủ tại các trường Đại học công lập nói riêng trên các phương tiện thông đại chúng, nội dung này có tác dụng đáng kể trong việc đáp ứng nhu cầu tìm hiểu pháp luật của nhân dân. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tài liệu [1] Ban chấp Hành TW Đảng, Nghị quyết số 29/NQ-TW về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam, Ban hành ngày 4 tháng 11 năm 2013. [2] Hoàng Thị Xuân Hoa: Tự chủ đại học – Xu thế của phát triển, VNU Media. [3] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), Luật Giáo dục [4] Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2018), Luật Giáo dục Đại học chỉnh sửa bổ sung [5] Nguyễn Minh Thuyết: Tự chủ đại học – Thực trạng và giải pháp, Đối thoại Giáo dục Việt Nam lần thứ nhất với chủ đề Cải cách giáo dục đại học ở Việt Nam, ngày 31/07 và 01/08/2014 tại TP Hồ Chí Minh. [6] Hoàng Thị Cẩm Thương: Giải pháp tăng cường tự chủ đại học ở Việt Nam, Tạp chí Tài chính, kỳ 1, số tháng 3/2017. 2. Trang web [7] EUA. University Autonomy in Europe. và một số tài liệu khác [8] International justice resource center, Rights to education thematic research guide, xem tại
File đính kèm:
- giai_phap_dam_bao_thuc_hien_phap_luat_ve_tu_chu_tai_cac_truo.pdf