Đường đi của kịch bản /Ngôn ngữ điện ảnh
Cuốn phim đầu tiên do người Mỹ thực hiện và trình chiếu trước công chúng
Mỹ vào năm 1893. Những phim được chiếu ở Mỹ vào thời kỳ nầy đều là
phim câm- tất nhiên- và đó chỉ là những đoạn phim có độ dài khoảng 50 giây,
mà người ta nối những đoạn phim ngắn, rời rạc này lại với nhau để làm thành
những cuốn phim dài khoảng 10 phút và đem chiếu. Những cuốn phim 10
phút thời sơ khai này vẫn chưa phải phim điện ảnh như quan niệm của chúng
ta có hiện nay. Đó chỉ là” cảnh chụp đoàn tàu chạy, bầy bò rừng trên đồng cỏ,
cảnh người đi lại tấp nập trên đường phố, binh sĩ diễn hành, thác nước đổ
trắng xóa trên gềnh đá, tàu thủy chạy trên sông v.v ”.
Theo Georges Sadoul thì ở Mỹ, những buổi chiếu đầu tiên của máy
Cinematograph được tổ chức sau những buổi chiếu của máy Vitascope (do
nhà phát minh Thomas Edison đỡ đầu) đã được hoan nghênh hơn rất nhiều.
Nhưng không bao lâu máy chiếu Cinematograph cũng đã nhanh chóng bị
máy chiếu Biograph do Lauste và Dickson sáng chế và phát hành với sự đỡ
đầu khai thác của một công ty tài chánh.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đường đi của kịch bản /Ngôn ngữ điện ảnh
Đường đi của kịch bản /Ngôn ngữ điện ảnh 1. Đường đi của kịch bản Cuốn phim đầu tiên do người Mỹ thực hiện và trình chiếu trước công chúng Mỹ vào năm 1893. Những phim được chiếu ở Mỹ vào thời kỳ nầy đều là phim câm- tất nhiên- và đó chỉ là những đoạn phim có độ dài khoảng 50 giây, mà người ta nối những đoạn phim ngắn, rời rạc này lại với nhau để làm thành những cuốn phim dài khoảng 10 phút và đem chiếu. Những cuốn phim 10 phút thời sơ khai này vẫn chưa phải phim điện ảnh như quan niệm của chúng ta có hiện nay. Đó chỉ là” cảnh chụp đoàn tàu chạy, bầy bò rừng trên đồng cỏ, cảnh người đi lại tấp nập trên đường phố, binh sĩ diễn hành, thác nước đổ trắng xóa trên gềnh đá, tàu thủy chạy trên sông v.v”. Theo Georges Sadoul thì ở Mỹ, những buổi chiếu đầu tiên của máy Cinematograph được tổ chức sau những buổi chiếu của máy Vitascope (do nhà phát minh Thomas Edison đỡ đầu) đã được hoan nghênh hơn rất nhiều. Nhưng không bao lâu máy chiếu Cinematograph cũng đã nhanh chóng bị máy chiếu Biograph do Lauste và Dickson sáng chế và phát hành với sự đỡ đầu khai thác của một công ty tài chánh. Để có được niềm vinh dự đó, Auguste và Louis Lumière, con trai của Antoine Lumière, một nhà công nghiệp hóa chất vùng Lyon đã trải qua một cuộc hành trình thử nghiệm không kém phần khắc nghiệt. Thay vì cạnh tranh trong lãnh vực sản xuất loại celluloid thay thế cho các mãng thủy tinh, Antoine buộc hai con trai nghiên cứu về việc cho ra đời loại ảnh màu. Nhưng đã không thành công trong chuyện này, anh em Lumières bắt tay nghiên cứu những chiếc máy Kinetoscope của nhà vật lý Mỹ Thomas Edison đầu tiên đến Pháp năm 1894. Họ đã cùng người thợ máy Jules Carpentier làm một chiếc Excentrique của Hornblower và những thước phim nhựa theo kích thước của Edison. Thế là dẫn đến cái ngày 22.3.1895 đó, lúc anh em Lumière mất đi sự tinh nhạy đầu tiên trong đời ông: ảnh màu không còn lôi cuốn được quần chúng, họ chán ngán vì bị tràn ngập bởi những thành quả nhiếp ảnh khác đã có từ nửa thế kỷ trước. Và trong sự vội vàng được gặp lại các người bạn họa sĩ của Paris, hai nhà công nghiệp hóa chất này đã cho dựng màn ảnh để chiếu các hình ảnh cử động mà ông đã quay mấy ngày trước đó:” Buổi tan tầm của các công nhân nhà máy của ông ở Lyon”. Sự thay đổi bất ngờ này là lúc điện ảnh ra đời; Các vị khách mời chán chường tưởng sắp bước ra phòng treo áo, đã đột ngột ngồi nán lại: Trong bóng tối, từng động tác của những con người đang nhảy múa trên chiếc màn căng đó đã mang một quyền lực ảo giác mà anh em Lumières cho đến lúc đó, có thể cũng chưa ý thức được. Chính là đời sống diễn ra trên tấm vãi, và chưa ai thấy được cái gì đó đặc biệt hơn sự kiện này. Sau nhiều lần chiếu trước công chúng, bắt đầu từ tháng ba, 1895, Lumières cùng với Carpentier chế tạo máy Cinematographe để thể hiện giấc mơ hằng đeo đuổi. Thực ra, vào thời điểm này, đã có rất nhiều cuộc chiếu phim rộng rãi. Nói rõ hơn,tất cả những người này đều đã làm những hình ảnh cử động trong một buổi chiếu công cọng có thu tiền vé, mà những người này không hề biết đến nhau. Điều đó sau này đã gây ra không biết bao nhiêu cuộc tranh luận về việc ai là người phát minh ra điện ảnh. Cuối cùng, tất cả những người hoạt động điện ảnh khắp nơi trên thế giới đã nhất trí coi ngày 28.12.1895 mà anh em Auguste và Louis Lumière chiếu phim trong nhà hầm của Quán cà -phê số 14 đại lộ Capucines, Paris là ngày khai sinh của điện ảnh. Sở dĩ anh em nhà Lumiers được công nhận như cha đẻ của điện ảnh vì họ không chỉ chế tạo máy ghi hình ảnh chuyển động lên mặt phẳng mà còn là máy quay, máy chiếu và máy in được hình ảnh chuyển động đó lên phim, nhân thành nhiều bản, phóng to để chiếu lên màn ảnh cho nhiều người cùng xem, vượt hẳn các loại máy đang cạnh tranh trên thị trường không chỉ về mặt kỹ thuật, mà còn tạo được cảm xúc nơi người xem khiến nó được hoan nghênh và phổ biến khắp nơi trên thế giới. Đến năm 1897, dân chúng Pháp, Châu Âu và Mỹ đã không còn muốn xem “ những bức ảnh động” đó nữa, như Georges Sadoul đã ghi nhận : “()Những bức ảnh động là một chứng minh khoa học. Sự chứng minh ấy đối với người Pháp và châu Âu, luôn cả Mỹ hình như đã hoàn tất.”(George Sadoul,L’ Histoire du Cinéma Mondial, Paris, l985,tr.43) Không phải vì thảm họa của Chợ Từ Thiện làm gần hai trăm người bị chết thiêu do sự cố từ cái đèn Éthe của một máy chiếu đã làm cháy một đống củi và bốc lửa; mà vì đám đông quần chúng ấy, thoạt đầu, “những hình ảnh động” là những gì mới lạ đối với họ và được họ ưa thích, nhưng chỉ vài năm, phim ảnh vẫn quanh đi, quẩn lại với những cảnh đó nên sớm trở thành trò giải trí nhạt nhẽo, và nó đã không thể hấp dẫn nỗi lớp trí thức, hoặc những người thích suy tư. Sự thật là như vậy, ở châu Âu và Mỹ, các phòng chiếu lần lượt hết khách, điện ảnh bị xua đuổi ra khỏi những thành phố lớn, biến họ thành những người làm trò ở các phiên chợ, đi trình bày một kỳ quan khoa học cho những đám cư dân lạ ... không yêu cầu được cùng lên ngựa vượt qua sa mạc trong cơn bão để bảo tồn mạng sống của chính mình. Và thay vì quan tâm đến bản thân, sự hiễm nguy thật sự đang đe dọa mạng sống mình, trong giây phút đó, anh ta chỉ nghĩ đến người khác, lo lắng cho số phận hiểm nguy của người khác, những người mà anh không hề biết mặt, chưa từng biết tên. Anh chỉ cầu xin người cướp ngựa khi sống sót trở về thành phố, đừng kể cho bất cứ ai câu chuyện mà anh là nạn nhân. Vì anh sợ câu chuyện lan truyền, để rồi trong những hoàn cảnh tương tự như của anh hiện tại, khi cơn bão sắp tới, những người cởi ngựa nào đó tình cờ đi qua, nghe tiếng kêu cứu, chợt nhớ đến câu chuyện do kẻ cướp ngựa kể lại, những người cởi ngựa này sẽ ngoãnh mặt bỏ đi, không dám dừng ngựa cứu người trong cơn nguy khốn, không phải vì họ không có lòng muốn cứu giúp người đang mắc nạn, nhưng vì sợ bị rơi vào hoàn cảnh tương tự như câu chuyện được kể, như thế sẽ rơi vào tình trạng biết bao nhiêu người cần được cứu sẽ không được cứu, bị bỏ rơi giữa cơn bão, trở thành nạn nhân của sự nghi ngại phát sinh từ câu chuyện được lan truyền.. Nhà biên kịch có thể khai thác chất liệu làm phim trong cuộc sống thường ngày. Có thể từ một bản tin trên nhật báo, trên tạp chí, một vụ việc ở tòa án , một câu chuyện trong thực tế, bạn với tư cách một nhà biên kịch có ý muốn viết thành một kịch bản, trước tiên, theo tôi, người viết phải suy nghĩ làm thế nào để biến sự kiện đó, câu chuyện đó, bản tin đó, đào sâu nó thổi vào đó một thông điệp hàm chứa một ý nghĩa triết lý, được lồng vào trong một cốt truyện phù hợp . Như vậy đòi hỏi nhà biên kịch phải có kiến thức, có tư duy triết lý. Muốn có một tư duy triết lý điều này không thể tự nhiên mà có, bạn phải học, phải đọc, phải xem phim , phải quan sát cuộc đời, nói chung là phải học suốt đời Không nhất thiết bạn phải trở thành một nhà nghiên cứu uyên thâm kim cổ, nhưng nhất định nhà biên kịch phải có được kiến thức, một tầm nhận thức tư tưởng để phân tích, để lý giải các hiện tượng của đời sống, lý giải ý nghĩa cuộc đời. Bộ não và hệ thần kinh của một nhà biên kịch luôn luôn trong tình trạng báo động. Những tìm tòi và chú ý của nhà biên kịch, bộ mặt tinh thần của nhà biên kịch đều mang dấu ấn của tầm nhận thức này.Với một nội dung mới, những yêu cầu mới của con người, yêu cầu đó ngày nay vẫn là thước đo của những khát vọng về tư tưởng và sáng tạo của những người làm nghệ thuật nói chung. Yêu cầu đó đòi hỏi nhà văn, nhà biên kịch phải sống với phạm vi chú ý thực sự rộng lớn, phải hiểu biết những hiện tượng đa dạng của cuộc sống hiện đại, phải hiểu biết về lịch sử, về sự phát triển của tư tưởng triết học, tư tưởng chính trị-xã hội. Đòi hỏi đó, nảy sinh sự giao tiếp giữa những tìm tòi của nhà biên kịch với những vấn đề và những thành tựu của khoa học hiện đại v.v.. Và tất cả những gì đó được thể hiện một cách cá biệt trong ý thức sáng tạo của nhà biên kịch, nó trở thành một sự kiện, một hiện tượng trong đời sống tinh thần của nhà biên kịch. Ở đây, nhà biên kịch có tư tưởng triết lý, luân lý chính trịvì cảnh đời mà nhà biên kịch muốn thể hiện bao hàm những tư tưởng ẩn chứa trong đó, nhưng nhà biên kịch không làm triết lý, không làm luân lý, chính trị như nhà chính trị luân lý, những nhà triết học chuyên môn. Nếu nhìn nhận kịch bản điện ảnh có mục đích nhằm mô tả cuộc đời hay nói rõ hơn, nhằm trình bày những thái độ của con người trước cuộc đời trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định, kịch bản điện ảnh không thể không đan xen hay hàm chứa luân lý và triết lý, vì bất cứ một thái độ nào của con người cũng là một thái độ trước cuộc đời. Và đã là thái độ, tất nhiên thái độ đó phải có ý nghĩa, bao hàm ý nghĩa,“ vấn đề không phải là sự kiện, mà là ý nghĩa của sự kiện đó” nhằm đạt tới một mục đích nào đó. Mà đã biểu tỏ thái độ, là đồng thời biểu lộ một sự lựa chọn, một quan điểm, một lập trường mà người cầm bút nhận thức về đời như thế trong muôn vàn lối nhìn khác, và nhà biên kịch cho rằng lối nhìn đó là đúng, là hợp lý, nó còn bao hàm ý niệm giá trị chân lý theo sự phân định bởi ý thức chủ quan của nhà biên kịch. Nói thông điệp hàm chứa ý nghĩa triết lý không có ý khẳng định nội dung kịch bản là một luận văn triết lý. Với nhà biên kịch, theo tôi, nhiệm vụ chủ yếu là tìm cách thể hiện cuộc đời bên trong những nét sống động và cụ thể của nó; cho người xem thấy cuộc đời, những thái độ, cử chỉ và hành động của nhân vật như trong thực tế đời sống. Tất cả những thái độ cử chỉ với những nét hữu hình bao hàm bên trong một ý nghĩa, một sự lựa chọn của bản thân nhà biên kịch trước cuộc đời. Nhà biên kịch phải khẳng định lòng tin của mình đối với tác phẩm của mình: những thắc mắc, những nghi vấn mà mỗi người nghệ sĩ tự đặt ra và có trách nhiệm góp phần trả lời, nhằm thúc đẩy xã hội tiến bộ vì những tác động của điện ảnh, cái phưông tiện mà nhà biên kịch đang sử dụng để chứng minh sự hiện hữu của mình trước cuộc đời, nhưng không chỉ để chứng minh, mà để thể hiện trách nhiệm làm người, hơn nữa là một nghệ sĩ. Giá trị tư tưởng của tác phẩm nghệ thuật, nói cho đúng hoàn toàn tùy thuộc vào tài năng của người nghệ sĩ, cũng như toàn bộ hệ thống nhân sinh quan, cá tính của từng nghệ sĩ. Như thế, cùng một đối tượng, có thể được nhìn theo nhiều góc độ khác nhau, tùy thuộc theo ý hướng lãnh hội của từng nhà biên kịch quan niệm và ghi nhận. Hãy cùng chúng tôi nhìn lại bộ phim La Strada (Con đường Italia,1954) của đạo diễn Federico Fellini, như một dẫn chứng. Frderico Fellini đã đặt người xem phim, hay thực sự dồn người xem vào tâm trạng ray rứt từ những suy nghĩ về đời sống, giá trị của con người và mối quan hệ giữa con người với con người qua những người hát rong được khắc họa trong một bối cảnh đặc biệt, một tưông quan đặc thù: anh chàng lực sĩ chuyên biểu diễn bứt dây xích sắt Zampano (Anthony Queen), của cô nàng đánh trống Gelsomina (Giulietta Masina) và chàng Điên đi trên dây xiệc (Richard Baschart). Câu chuyện Con Đường được Federico Fellini kể lại bằng một bút pháp điện ảnh đặc biệt. Trong đó, anh chàng hát xiệc giang hồ Zampano (Anthony Quinn) quay trở lại miền biển nghèo nước Ý điều đình với mẹ của Gelsomina, để có nàng thay thế Rosa, chị nàng đã bỏ mạng. Để nuôi đàn con sót lại, mẹ nàng bằng lòng trao Gelsomina (Giulietta Masina, vợ của đạo diễn Federico Fellini) cho Zampano. Gelsomina theo Zampano rày đây mai đó trên chiếc xe 3 bánh cà tàng. Nàng không biết làm gì khác hơn là đánh trống, mỗi khi Zampano diễn trò bứt sợi xích sắt trước đám đông, nhưng nàng khờ khạo quá, đến nỗi thường bị Zampano hành hạ đánh đập và chửi mắng. Hắn coi rẻ nàng, nhưng lại không thể xa nàng, ngược lại, nàng cũng không thích hắn. Bản năng thúc đẩy nàng nhiều lần bỏ trốn, nhưng không được, nàng không biết đi đâu và không thể sống với ai khác, nàng lại tiếp tục sống bên cạnh Zampano, với công việc hàng ngày quen thuộc. Thế rồi, định mệnh run rủi, hai người gặp Gã Điên (Richard Baschart), một kẻ làm công cho một gánh xiệc giang hồ khác. Gã có tài đi trên dây cao: một trò chơi điên rồ. Gã lấy hiểm nguy đổi sự sống, e cũng không hẳn vậy, vì gã mắc bệnh lao, thấy mình gần với cái chết, nên muốn đùa giỡn với cái chết. Những khi ở trên dây cao, chỉ cần một chút xúc động là gã có thể ngã xuống tan xưông nát thịt. Gã cũng lao vào một thách thức nguy hiểm khác, không phải trên dây xiệc, mà gã luôn trêu tức Zampano mỗi khi gặp hắn ta, không hẳn vì thù hận hay đố kỵ. Nhưng chính sự gặp gỡ đó đã cho họ ý thức được rằng, sự hiện hữu của họ thật sự có ý nghĩa và giá trị, không phải chỉ duy cho họ mà trong mối tưông quan giữa con người với con người. Nhưng đến khi họ hiểu ra được điều đó thì đã quá muộn. Zampano giết chết Gã Điên và ném xác hắn xuống gầm cầu trước sự chứng kiến của Gelsomina. Từ đó nàng trở nên điên loạn, mất trí. Và trong giấc ngủ nàng mê sảng gọi tên gã điên, làm Zampano sợ hãi, lo sợ bị tù tội. Zampano muốn trả nàng về nhà, nhưng nàng không chịu, vì nàng không thể sống mà thiếu Zampano. Nhưng Zampano vì muốn yên thân đã bỏ Gelsomina lại trên đường với một số tiền và cây kèn, hy vọng nàng có thể bươn chải được. Nhưng Zampano đâu biết, xa chàng Gelsomina không sống được. Khi Zampano nhận thức được nàng là cần thiết, thực sự quan tâm đến nàng, và mong muốn gặp lại nàng thì nàng đã không còn nữa. Một hôm, tình cờ Zampano nghe một điệu hát quen thuộc từ miệng một cô thợ giặt gần đó. Điệu nhạc mà chính chàng dạy cho nàng, một điệu hát buồn ảo não. Zampano lân la đến hỏi: “Thưa cô, cô gái ấy bây giờ ở đâu?” Và Zampano được trả lời:” Cô ấy đã chết rồi, Tội nghiệp. Ba tôi thấy nàng bơ vơ nên đem nàng về nhà ở với chúng tôi. Nhưng nàng cứ buồn thảm héo hắt, không chịu ăn uống gì cả, cho tới lúc kiệt sức rồi chết.” Bây giờ, Zampano mới ý thức được rằng chàng đã thực sự yêu thưông nàng, đã thực sự đánh mất một tình yêu. Chàng đau khổ đến không còn diễn nổi trò xiệc mà ngày xưa chàng đã từng trình diễn. Zampano cảm thấy mình hoàn toàn cô độc trên cõi đời. Chàng đau đớn tuyệt vọng, thất thểu giữa đêm tối, bên bờ biển bao la, với tiếng gầm thét của sóng biển. Chàng ngã khụyu xuống giữa đêm tối, mênh mông và im lặng Một bộ phim khác, bộ phim Ông Già và Biển Cả ( The Old Man and The Sea,1958) của đạo diễn John Sturges, kịch bản : Peter Viertel dựa theo tiểu thuyết của văn hào Ernest Hemingway.. diễn viên Spencer Tracy( Old man), Felipe Pazos ( đứa trẻ), Martin( Harry Bellaver) những người làm phim đã đẩy chúng ta vào một cuộc vật lộn nghiệt ngã với số phận, với thiên nhiên. Ở đó, hình ảnh con người phải chiến đấu để tồn tại, để chứng minh sự hiện hữu của mình trước cuộc đời, giữa những ngưởi cùng sống, nhưng bi kịch ở chỗ tất cả những nỗ lực của mình, cả cuộc đời mình để cuối cùng chỉ nhận được một bộ xưông cá, ( một đam mê vô ích, hay một thứ mythe de Sisyphe?)! nhưng dù biết như vậy, anh ta vẫn tiếp tục vì anh đã được sinh ra trong cõi đời này. “Ông lão đánh cá Santiago sống cô độc trong một túp lều nhỏ bên bờ biển ngoại ô La Habana. Đó là một ông lão nghèo khổ, thân hình tuyền tụy, gầy gò, hai bàn tay có những vết sẹo hằn sâu vì cọ xát nhiều lần với những sợi dây câu trĩu cá. “Trong khách sạn “Vọng lâu”có một bà khách ăn mặc sang trọng chỉ cho một em nhỏ cùng đi nhìn thấy bộ xương cá dài thượt với chiếc đuôi khổng lồ đang nằm phơi trên bãi cát trắng. Ai nấy đều trầm trồ trước bộ xưông cá vĩ đại, mà có ngờ đâu chủ nhân của bộ xưông cá ấy chính là ông già Sandiago đang nằm ngủ li bì trong túp lều kia sau ba ngày đêm vật lộn với cá trên biển cả mênh mông. Sau mấy chục ngày liền ra khơi không kiếm được con cá nào, Santiago bị nhiều dân chài chế giễu, nhưng lão không nản lòng và vẫn tin tưởng sẽ đánh được một mẻ cá lớn xứng đáng với uy danh một thời của lão thời trai trẻ. Thế rồi lão lại ra khơi từ lúc quá nửa đêm. Cậu bé Manolin, người bạn nhỏ của lão giúp lão mang những vật dụng xuống thuyền, rồi tiễn lão một ly cà phê nóng, may con cá nhỏ làm mồi câu và lời chúc may mắn.Tấm long của người bạn nhỏ, sưởi ấm và làm tăng thêm niềm tin tưởng cho lão. Santiago cho thuyền vượt xa hơn mọi ngày, đến tận vùng Giếng lớn, nơi mà theo kinh nghiệm nhiều năm đi biển, lão biết đây là một một bãi chứa đầy cá. Trời chưa sáng tỏ,, lão đã thả xong mồi, nhưng đợi mãi đến gần trưa mới thấy chiếc phao gỗ bị kéo mạnh xuống nước. Lão mừng khôn xiết, giật dây câu kéo lên, nhưng không tài nào kéo nổi.Đằng kia, đầu dây là một sức nặng kinh khủng:chắc phải là một con cá rất lớn. Cá lôi cả thuyền của lão đi. Lão phải vắt sợi dây câu ngang long, gập mình rán hết gân cốt để níu lay nó. Từ trưa cho đến chiều, lão hy vọng con cá sẽ yếu sức dần, nhưng lạ thay, cá vẫn tiếp tục kéo thuyền đi và bấy giờ thì không còn thấy bờ đâu nữa. Rồi đêm xuống, trời đầy sao. Vai và tay lão bị cứa rách, rướm máu. Suốt đêm hôm đó và ngày hôm sau, lão không có được một miếng bánh để nhét vào bụng, nên lão yếu dần, chân tay tê dại, có lúc tay trái bị chuột rút co quắp, có lần mệt quá đã thiếp đi trên thuyền, nhưng lão nhất định không chịu buông tha con mồi:”Mình sẽ cho nó biết sức con người có thể làm được gì và chịu đựng đến đâu. Sang đến ngày thư ba, cá đuối sức, lão dùng dao đâm chết cá, buộc nó vào mạn thuyền và kéo về. Đó là một con cá kiếm khổng lồ, dài hơn chiếc thuyền của lão và nặng chừng sáu bảy tấn. Tưởng đã được nghỉ ngơi và mừng thầm với những nỗ lực làm việc của mình, nhưng có ngờ đâu, cá mập đánh hơi thấy mùi tanh của máu đã lăn xả tới. Santiago lại dấn thân vào cuộc chiến đấu với loài “thú dữ của biển”xúm nhau đến rĩa thịt con cá kiếm. Lão đem hết sức tàn chống chọi với lũ cá mập, phóng dao, đâm dao, dùng sào, thậm chí dùng cả mái chèo để đánh , để vụt túi bụi. Lão giết được nhiều con ,cuối cùng đuổi được chúng đi, nhưng khi nhìn đến con mồi của mình thì that đau đớn.Nó đã bị rỉa hết thịt chỉ còn trơ lại bộ xưông. Lão cho thuyền cập bean. Chú bé Manolin giúp lão về túp lều nghèo nàn. Santiago mệt mỏi, đau xót và ngủ thiếp đi, với “đàn sư tử” lởn vởn trong giấc mơ”. Một bộ phim khác nữa mà chúng tôi muốn trình bày ở đây, bộ phim Limelight ( UA,1952) kịch bản, đạo diễn và âm nhạc của Charles Chaplin, phụ tá đạo diễn Robert Aldrich, diễn viên gồm Charles Chaplin (Calvero), Claire Bloom (Terry), Sydney Chaplin (Neville), Andre Eglevsky (Harlequin), Melissa Hayden( Columbine) Trong đó, Charles Chaplin đã biểu hiện được ý nghĩa: “cuộc đời càng tuyệt vọng, càng bế tắc thì càng trở nên có ý nghĩa và lại càng đáng sống”. Hay nói như cách nói của Charles Chaplin về chính bộ phim của mình:” Trọn ý nghĩa của câu chuyện chỉ là: đừng sợ sống” ( That’s what it is, that is the whole story, not to be afraid to be alive ). “Anh hề già cứu một vũ công thoát khỏi cảnh tự tử, mặc dù anh hề già này cũng đang là một kẻ tuyệt vọng , chán đời. Nhưng anh vẫn cố gắng hết sức an ủi, khuyến khích , gây cho cô vũ công trẻ đẹp biết tin tưởng vào cuộc đời. Nhờ những lời khuyên và cử chỉ ân cần của anh, cô trở nên yêu đời và tin tưởng vào chính bản thân mình. Rồi cô trở về với cuộc sống, nhảy múa lại như xưa, chẳng bao lâu cô gái bước lên tột đỉnh của vinh quang và tiền bạc; trong khi đó anh hề già tóc bạc trắng chìm vào trong đêm tối, bị người đời lãng quên. Thế rồi, một hôm đang lúc nàng vũ công trẻ đẹp vui tươi nhảy múa thì anh hề già gục chết âm thầm dưới ánh đèn sân khấu, không một ai hay biết”. Nếu cần phải dẫn chứng thêm những bộ phim có thông điệp hàm chứa một tư tưởng triết lý sâu sắc trong toàn bộ lịch sử điện ảnh thế giới chắc chắn sẽ không thể kể hết, vì có rất nhiều. Nhưng điều chúng tôi muốn nói ở đây là những nhà biên kịch trước khi đặt bút xuống viết một kịch bản điện ảnh hay truyền hình phải có tham vọng xây dựng một tác phẩm đạt chất lượng nghệ thuật cao và tư tưởng triết lý sâu sắc, vì một tác phẩm như vậy mới có thể tồn tại lâu dài.
File đính kèm:
- duong_di_cua_kich_ban_ngon_ngu_dien_anh.pdf