Đưa nghệ thuật tuồng đến khán giả trẻ

Đặc sắc nghệ thuật tuồng

Tuồng là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền của dân tộc, được hình thành trên

cơ sở ca vũ nhạc và các trò diễn xướng dân gian kết hợp sự giao lưu với văn hóa Trung

Hoa. Tuồng có mặt ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam nhưng phát triển mạnh mẽ và phổ

biến hơn cả ở Nam Trung bộ. Ðến cuối thế kỷ XVIII, tuồng đã phát triển một cách hoàn

chỉnh từ kịch bản văn học đến nghệ thuật biểu diễn. Dưới triều Nguyễn, tuồng có vị trí

quan trọng trong sinh hoạt văn nghệ ở cung đình, thậm chí trở thành quốc kịch dưới triều

vua Tự Đức(8).

Là một loại hình kịch hát thuộc dòng sân khấu tự sự phương Ðông, tuồng mang

đậm âm hưởng hùng tráng với những tấm gương tận trung báo quốc, xả thân vì đại

nghĩa, những bài học về đạo lý, khí tiết của người anh hùng trong các hoàn cảnh đầy mâu

thuẫn và xung đột. Chính vì vậy, chất bi hùng là một đặc trưng thẩm mỹ độc đáo của

tuồng. “Bi” trong tuồng đạt tới mức tột cùng của sự đau thương mất mát, “hùng” trong

tuồng đạt đến đỉnh điểm của sự hoành tráng, oai nghiêm. Tuồng mang tính cổ điển khi

phần lớn các vở diễn được xây dựng dựa theo những tích truyện lịch sử mang tính khuôn

mẫu.

Tuồng là loại sân khấu mang tính tổng hợp. Ở đây các yếu tố ca, vũ, nhạc được phát

triển một cách hài hoà với nghệ thuật diễn xuất của diễn viên. Sự kết hợp tổng thể các

yếu tố này mang lại cảm xúc thẩm mỹ đặc biệt cho khán giả, giúp họ cảm nhận được sự

tinh tế của nghệ thuật tuồng

Đưa nghệ thuật tuồng đến khán giả trẻ trang 1

Trang 1

Đưa nghệ thuật tuồng đến khán giả trẻ trang 2

Trang 2

Đưa nghệ thuật tuồng đến khán giả trẻ trang 3

Trang 3

Đưa nghệ thuật tuồng đến khán giả trẻ trang 4

Trang 4

Đưa nghệ thuật tuồng đến khán giả trẻ trang 5

Trang 5

Đưa nghệ thuật tuồng đến khán giả trẻ trang 6

Trang 6

Đưa nghệ thuật tuồng đến khán giả trẻ trang 7

Trang 7

Đưa nghệ thuật tuồng đến khán giả trẻ trang 8

Trang 8

Đưa nghệ thuật tuồng đến khán giả trẻ trang 9

Trang 9

pdf 9 trang baonam 7480
Bạn đang xem tài liệu "Đưa nghệ thuật tuồng đến khán giả trẻ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đưa nghệ thuật tuồng đến khán giả trẻ

Đưa nghệ thuật tuồng đến khán giả trẻ
ĐƯA NGHỆ THUẬT TUỒNG ĐẾN KHÁN GIẢ TRẺ 
 PHẠM BÍCH HUYỀN 
 Tóm tắt 
 Phát triển khán giả thông qua hoạt động giáo dục nghệ thuật là nhu cầu cấp thiết, 
đồng thời là hướng đi đầy triển vọng đối với các tổ chức văn hóa nghệ thuật. Là một đơn 
vị hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật truyền thống dân tộc, Nhà hát Tuồng Việt Nam đã 
và đang thể nghiệm chương trình giới thiệu nghệ thuật tuồng cho thế hệ trẻ tại các 
trường. Bài viết tập trung phân tích hoạt động giáo dục nghệ thuật của Nhà hát Tuồng 
Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt 
động này. 
 1. Nghệ thuật tuồng- đặc sắc nhưng đối mặt với nhiều thách thức 
 Đặc sắc nghệ thuật tuồng 
 Tuồng là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền của dân tộc, được hình thành trên 
cơ sở ca vũ nhạc và các trò diễn xướng dân gian kết hợp sự giao lưu với văn hóa Trung 
Hoa. Tuồng có mặt ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam nhưng phát triển mạnh mẽ và phổ 
biến hơn cả ở Nam Trung bộ. Ðến cuối thế kỷ XVIII, tuồng đã phát triển một cách hoàn 
chỉnh từ kịch bản văn học đến nghệ thuật biểu diễn. Dưới triều Nguyễn, tuồng có vị trí 
quan trọng trong sinh hoạt văn nghệ ở cung đình, thậm chí trở thành quốc kịch dưới triều 
vua Tự Đức(8). 
 Là một loại hình kịch hát thuộc dòng sân khấu tự sự phương Ðông, tuồng mang 
đậm âm hưởng hùng tráng với những tấm gương tận trung báo quốc, xả thân vì đại 
nghĩa, những bài học về đạo lý, khí tiết của người anh hùng trong các hoàn cảnh đầy mâu 
thuẫn và xung đột. Chính vì vậy, chất bi hùng là một đặc trưng thẩm mỹ độc đáo của 
tuồng. “Bi” trong tuồng đạt tới mức tột cùng của sự đau thương mất mát, “hùng” trong 
tuồng đạt đến đỉnh điểm của sự hoành tráng, oai nghiêm. Tuồng mang tính cổ điển khi 
phần lớn các vở diễn được xây dựng dựa theo những tích truyện lịch sử mang tính khuôn 
mẫu. 
 Tuồng là loại sân khấu mang tính tổng hợp. Ở đây các yếu tố ca, vũ, nhạc được phát 
triển một cách hài hoà với nghệ thuật diễn xuất của diễn viên. Sự kết hợp tổng thể các 
yếu tố này mang lại cảm xúc thẩm mỹ đặc biệt cho khán giả, giúp họ cảm nhận được sự 
tinh tế của nghệ thuật tuồng. 
 Phương thức phản ánh của tuồng không đi vào tả thực mà chú trọng tả ý, nhằm lột 
tả cái thần của nhân vật, sự việc. "Cái thần" chính là đỉnh cao của nghệ thuật biểu diễn 
tuồng. Do đó, tuồng bỏ qua các chi tiết vụn vặt, dùng thủ pháp khoa trương, cách điệu 
nhằm thể hiện cái bản chất, cốt lõi. Lời nói, động tác hình thể, sự di chuyển trên sân khấu 
tuồng đều được cách điệu hóa cao để trở thành những qui phạm có nguyên tắc và niêm 
luật chặt chẽ. Ðặc trưng này còn được thể hiện trong hoá trang, hình thành các kiểu mặt 
nạ tiêu biểu cho từng loại nhân vật trong tuồng. Các loại nhân vật tuồng được phân loại 
một cách rõ rệt nhờ vào cách hóa trang và tư thế diễn xuất (5, tr.8 – 10). Nguyên tắc khoa 
trương, cách điệu trong tuồng chịu ảnh hưởng của luật âm dương. 
 Bên cạnh đó, tuồng còn dùng thủ pháp biểu trưng, ước lệ, nghĩa là thủ pháp lấy chi 
tiết để thay cho toàn thể (như lấy chiếc roi ngựa để thay thế con ngựa, dùng mái chèo 
thay cho con thuyền). Cũng vì vậy mà sân khấu tuồng rất ít được bài trí. Diễn viên biểu 
diễn đồng thời làm nhiệm vụ “bài cảnh”, nghĩa là thể hiện không gian và thời gian qua 
những động tác tượng trưng, giàu sức biểu cảm. Vậy nên không gian tuồng thường được 
bỏ trống nhưng với diễn xuất của nghệ sĩ, thoắt là cảnh cung đình nguy nga, tráng lệ, 
thoắt trở thành bãi chiến trường máu lửa. Do đó, người ta nói sân khấu tuồng là không 
gian giàu sức gợi cảm và tưởng tượng, trong đó khán giả có thể thỏa chí suy tưởng, bay 
bổng và sáng tạo cùng nghệ sĩ. 
 Múa tuồng được chắt lọc và cách điệu hóa từ võ thuật dân tộc, múa dân gian, múa 
tín ngưỡng, tôn giáo và các điệu bộ, động tác sinh hoạt, lao động hàng ngày. Múa tuồng 
có những nguyên tắc nghiêm ngặt “nội ngoại tương quan, tả hữu tương ứng, thượng hạ 
tương phù” (nghĩa là hành động bên trong, bên ngoài phải tương ứng; phải, trái phải cân 
đối; trên, dưới phải phù hợp với hoàn cảnh). 
 Hát tuồng với các cách nói lối, bài bản và làn điệu được hình thành từ những giai 
điệu trong tế lễ và hát xướng dân gian. Nói lối tuồng dựa theo văn biền ngẫu từ bốn đến 
tám chữ. Có nhiều kiểu nói lối khác nhau, mỗi loại đều có cách ngắt chữ, nhả chữ riêng. 
Bài bản là hát theo nhịp phách còn làn điệu là hát có nhạc đệm riêng biệt. Theo Giáo sư 
Hoàng Châu Ký: “Làn là hơi hát theo một giai điệu đã được quy định”. Có nhiều làn điệu 
tuồng như nam, thán, oán, ngâm, vịnh, xướng... mỗi làn điệu lại chia ra nhiều loại khác 
nhau. Bài bản, làn điệu được hát theo nhiều thể thơ như lục bát, tứ tuyệt, thất ngôn, ngũ 
ngôn, song thất lục bát Đây là “đài từ” (ngôn ngữ được thể hiện trên sân khấu) độc đáo 
của nghệ thuật sân khấu Việt Nam. 
 Âm nhạc tuồng vừa khai thác vốn nhạc dân gian, vừa khai thác lễ nhạc và tiếp thu 
những điệu nhạc từ phương Bắc. Âm nhạc tuồng tuân thủ theo nguyên tắc chung gọi là 
“lề lối”. Ví dụ, nhạc cụ trống luôn ... rong việc thu hút thời gian và đồng tiền nhàn rỗi của công chúng. 
Công chúng ngày càng khó tính hơn trong thưởng thức nghệ thuật. Họ phân ra nhiều 
tầng lớp, nhóm, bộ phận có nhu cầu, thị hiếu rất khác nhau. Trên thực tế, trong khi lớp 
người già hiểu tuồng đang mất dần thì lớp trẻ không đủ hiểu biết để thích tuồng và yêu 
tuồng. Giáo trình giảng dạy nghệ thuật truyền thống chưa phong phú, trong chương trình 
phổ thông rất ít bài học về nghệ thuật truyền thống. 
 Trong khi đó, với những đặc trưng của một loại hình sân khấu truyền thống mang 
tính “bác học” như đã phân tích ở trên, khán giả cần được trang bị những năng lực nhất 
định mới có thể cảm nhận sâu sắc cái hay, cái đẹp của tuồng. Chẳng hạn, khác với các 
loại hình sân khấu mang tính trực quan, tuồng sử dụng thủ pháp biểu trưng, ước lệ. Điều 
đó không phải ai cũng hiểu được. Phải hiểu ngôn ngữ tuồng, khán giả mới có thể tưởng 
tượng ra những bối cảnh sinh động từ một mảnh sân khấu trống, mới hiểu được ẩn ý sâu 
xa đằng sau một động tác vuốt râu của nhân vật. Khán giả thực sự là người đồng sáng tạo 
trong nghệ thuật tuồng. Chính vì vậy, để lôi kéo khán giả đến với tuồng, bên cạnh việc 
chấn hưng sân khấu còn phải giúp công chúng hiểu về tuồng, phải đào tạo và phát triển 
khán giả. Không thể ngồi chờ, Nhà hát Tuồng Việt Nam cần chủ động đi tìm khán giả 
cho chính mình. 
 2. Con đường nào để tuồng đến với khán giả trẻ? 
 Hãy đến với một chương trình 
 Vào một buổi chiều cuối năm 2010, gần ba ngàn học sinh Trường Tiểu học dân lập 
Đoàn Thị Điểm- Hà Nội ngồi ngay ngắn trên sân trường, háo hức hướng lên sân khấu, 
nơi có tấm phông lớn với dòng chữ “Chúng em cùng xem và tìm hiểu nghệ thuật 
tuồng” và nhóm nhạc công cùng các nhạc cụ dân tộc. Mở đầu chương trình, một nghệ sĩ 
của Nhà hát Tuồng Việt Nam xuất hiện. Với những câu hỏi dẫn dắt và phần giới thiệu 
của nghệ sĩ, trong vòng 15 phút, các em học sinh dần hiểu tuồng có từ khi nào, nguồn 
gốc từ đâu, sân khấu tuồng phản ánh cuộc sống bằng cách thức riêng ra sao, rồi đến 
những nhân vật và câu chuyện tiêu biểu của tuồng. 
 Không khí trở nên đặc biệt sôi động khi đến phần biểu diễn trích đoạn tuồng. Tất cả 
học sinh dường như đều phấn khích khi tiếng trống, tiếng nhạc nổi lên và các nghệ sĩ 
xuất hiện trong trang phục tuồng rực rỡ sắc màu. Với trích đoạn múa cờ (múa trình 
tường) và ông già cõng vợ đi xem hội, các em say sưa theo dõi và ồ lên thích thú với 
những chi tiết hài hước hay những đoạn tấu hóm hỉnh. 
 Sau biểu diễn trích đoạn là phần giao lưu giữa khán giả và nghệ sĩ. Hai em học sinh 
lớp 1 ngồi phía trên được mời lên sân khấu. Trả lời các câu hỏi như cảm xúc của em sau 
khi xem trích đoạn? Em thích nhân vật nào? Vì sao? Có em trả lời rất hồn nhiên như 
thích nhân vật cậu Xuất trong đoạn ông già cõng vợ đi xem hội vì cậu mặc áo đỏ (!). Dù 
có thể chưa hiểu hết ý nghĩa sâu xa của từng nhân vật nhưng những cảm xúc chân thật 
của các em học sinh tiểu học đối với tuồng thật đáng quí. Khi nghệ sĩ hỏi học sinh toàn 
trường có câu hỏi gì, rất nhiều cánh tay giơ lên chứng tỏ sự quan tâm, tò mò của các em. 
Những câu hỏi như “người giả ở đâu ra?” khi có em phát hiện một nghệ sĩ vừa đóng vai 
ông già lại vừa đóng vai cô vợ trẻ Đây lại là dịp để các cô chú nghệ sĩ giới thiệu kỹ 
hơn về đạo cụ, về ngôn ngữ thể hiện của tuồng. Các em còn có cơ hội làm nghệ sĩ khi tập 
bắt chước một số động tác đơn giản của diễn viên. Lần đầu tiên cầm chiếc roi ngựa và 
múa, các em trên sân khấu và các bạn dưới sân trường đều hồi hộp, thích thú. 
 Cứ như vậy, sau mỗi phần giao lưu, giới thiệu, các em lại được xem trích đoạn ngắn 
để hiểu hơn những cái hay, cái độc đáo của nghệ thuật tuồng. Trong buổi này, các em 
còn được xem trích đoạn Thánh Gióng, một câu chuyện rất gần gũi với tuổi thơ và Hồ 
Nguyệt Cô hóa cáo với những chi tiết thần tiên, biến hóa giống như thế giới cổ tích mà 
các em yêu thích. 
 Hơn một tiếng đồng hồ trôi qua thật nhanh, các em dường như vẫn say sưa với nghệ 
thuật tuồng thì chương trình đã đến hồi kết thúc. Khi chú nghệ sĩ hỏi “các em có thích 
tuồng không và có muốn cùng cha mẹ đi xem tuồng không?”, cả sân trường rộ lên giọng 
đồng thanh “có ạ, có ạ”. Cô Nguyễn Thị Hoa, giáo viên chủ nhiệm lớp 4A12 cho biết: 
nhà trường rất quan tâm đến hoạt động ngoại khóa giới thiệu về nghệ thuật cho học sinh 
và những buổi sinh hoạt như thế này rất hữu ích cho sự phát triển toàn diện của các em. 
Em Đình Khuê, học sinh của lớp thì hồ hởi “Con thấy Tuồng rất vui, rất hay”. 
 Giới thiệu, quảng bá nghệ thuật tuồng với khán giả trẻ 
 Ví dụ trên đây là một trong hàng trăm buổi giới thiệu nghệ thuật tuồng mà Nhà hát 
Tuồng Việt Nam đã và đang đưa đến các trường học trên nhiều tỉnh, thành phố. Có thể 
nói, Ban giám đốc Nhà hát Tuồng là những người sớm nhận thấy nhu cầu phát triển khán 
giả của nghệ thuật tuồng. Họ đã xác định đối tượng quan trọng nhất cần tác động chính là 
khán giả trẻ, những thế hệ tương lai của đất nước. Cần tiếp cận khán giả trẻ để “truyền 
cảm hứng tuồng”, để thổi bùng lên tình yêu và lòng tự hào đối với một tinh hoa văn hóa 
của dân tộc (7). 
 Từ năm 1999-2000, Nhà hát Tuồng Việt Nam đã tham gia dự án Sân khấu học 
đường do Cục nghệ thuật biểu diễn làm cơ quan chủ quản và dựa trên nguồn tài trợ từ 
Quĩ Ford. Các giai đoạn tiếp theo, dự án được Chính phủ Việt Nam cấp kinh phí thực 
hiện. Năm 2010, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục phê duyệt đề án “Giới thiệu, 
quảng bá nghệ thuật tuồng với khán giả trẻ” (4). Các dự án nhằm mục đích tăng cường 
sự hợp tác giữa các tổ chức nghệ thuật với trường học, tăng cường trách nhiệm giáo dục 
của các tổ chức nghệ thuật, đưa sân khấu vào giáo dục, thu hút sự quan tâm và nâng cao 
hiểu biết của học sinh đối với nghệ thuật truyền thống dân tộc, đồng thời phát hiện các 
tài năng và năng khiếu nghệ thuật. Hơn mười năm qua, chương trình giới thiệu tuồng đến 
các trường học vẫn được Nhà hát Tuồng bền bỉ thực hiện và đã trở thành hoạt động 
thường niên trong kế hoạch công tác của Nhà hát. 
 Nghệ sĩ của Nhà hát tuồng đã tới các trường học, tổ chức các buổi biểu diễn miễn 
phí, kết hợp giới thiệu về loại hình sân khấu dân tộc. Bên cạnh đó, dự án còn tuyển chọn 
những học sinh có năng khiếu, dạy cho các em những kiến thức cơ bản về nghệ thuật sân 
khấu, tập múa, hát, diễn xuất đồng thời học các vai mẫu trong các trích đoạn tuồng 
truyền thống. Các em học sinh này đã trở thành hạt nhân của các nhóm sân khấu, tích 
cực tham gia hoạt động nghệ thuật không chuyên tại nhà trường và địa phương (1, tr.2-
16). Kết quả của dự án, phong tràotuồng được khơi lên ở nhiều tỉnh, thành phố như Bắc 
Ninh, Hải Dương, Ninh Bình, Thái Bình.Riêng huyện Đông Anh- Hà Nội có tới 13 
đội tuồng, gồm nhiều thế hệ diễn viên, người thấp nhất là 9 tuổi. Những 
ngày hội, ngày tết, tổng kết hội nghị, các tiết mục tuồng đến với nhân 
dân các làng xã, sưởi ấm không khí cả một vùng rộng lớn(3). Theo thống kê của Cục 
Nghệ thuật biểu diễn, dự án đã được triển khai trên 29 tỉnh thành trong cả nước, tại 83 
trường trung học cơ sở, trong đó riêng nghệ thuật tuồng đã có hơn 500 học sinh, sinh 
viên trực tiếp học biểu diễn(2). 
 Đánh giá 
 Hoạt động giáo dục nghệ thuật của Nhà hát Tuồng Việt Nam đã diễn ra trong bối 
cảnh có nhiều thuận lợi nhưng cũng có những khó khăn nhất định. 
 Thuận lợi 
 Các cơ quan quản lý nhà nước đã quan tâm đến công tác giáo dục của các tổ chức 
nghệ thuật và nhìn nhận đây là hoạt động cần thiết để các đơn vị thích ứng tốt hơn với 
nền kinh tế thị trường. Chẳng hạn, trong dự thảo Đề án “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật 
biểu diễn truyền thống đến năm 2020”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã chỉ rõ: 
“Tuyên truyền, phổ biến trong mọi tầng lớp nhân dân về giá trị của các loại hình nghệ 
thuật biểu diễn truyền thống, định hướng giáo dục thẩm mỹ cho thế hệ trẻ trong nhà 
trường và ngoài cộng đồng để nâng cao hiểu biết của thế hệ trẻ về vẻ đẹp, giá trị của 
nghệ thuật biểu diễn truyền thống” là nhiệm vụ và giải pháp quan trọng để đạt đến mục 
tiêu “giữ gìn và phát triển nghệ thuật biểu diễn Việt Nam phong phú về loại hình, giàu có 
về tác phẩm, đa dạng về phong cách, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, 
đậm đà bản sắc dân tộc”(2). Bên cạnh sự chỉ đạo về đường lối, nhà nước đã cấp ngân 
sách cho Nhà hát Tuồng và các đơn vị khác thực hiện chương trình giáo dục nghệ thuật. 
 Trong điều kiện xã hội hiện nay, nhà trường và gia đình đã quan tâm nhiều hơn đến 
phát triển nhân cách toàn diện, đặc biệt là giáo dục thẩm mỹ cho học sinh. Ở những 
thành phố lớn như Hà Nội, do mức sống cao và trình độ dân trí phát triển, hoạt động giáo 
dục văn hóa, nghệ thuật cho thế hệ trẻ đã được gia đình và nhà trường chú trọng đầu tư. 
Đây là nhu cầu xã hội và điều kiện khách quan thuận lợi cho hoạt động giáo dục nghệ 
thuật của Nhà hát Tuồng. 
 Về phía nhà hát, đã có sự đồng thuận trong nhận thức của Ban Giám đốc và toàn thể 
cán bộ, nghệ sĩ về ý nghĩa và vai trò của việc giáo dục nghệ thuật tuồng cho lớp trẻ. Đây 
là yếu tố không thể thiếu cho sự thành công của các chương trình giáo dục nghệ thuật. 
Mặt khác, về nhân lực, nhà hát có một đội ngũ chuyên gia, nghệ sĩ tài năng, giàu kinh 
nghiệm và tâm huyết với nghề, nhiệt tình trong giới thiệu, giảng dạy cho các em. 
 Khó khăn 
 Khó khăn lớn trong hoạt động giáo dục nghệ thuật là việc phối hợp với các trường 
để đưa chương trình đến với học sinh. Mặc dù các hoạt động này đều là miễn phí, nhà 
trường không phải đài thọ nhưng do lịch học quá dày, lại được cố định từ trước nên 
nhiều trường không muốn hợp tác với nhà hát. Nguyên nhân sâu xa có thể do một số 
trường chưa nhận thức đầy đủ về tác dụng của hoạt động giáo dục nghệ thuật hoặc ngại 
thay đổi nếp sinh hoạt cũ trong nhà trường. Nhìn rộng ra, hiện còn thiếu sự chỉ đạo mang 
tính thống nhất trong hệ thống nhà trường nên việc tiếp nhận chương trình giáo dục nghệ 
thuật phụ thuộc vào nhận thức và thiện chí của ban giám hiệu từng trường. Điều này 
khiến cho hoạt động giáo dục của nhà hát đôi khi khá khó khăn. 
 Thành tựu 
 Hơn 10 năm qua, hoạt động giáo dục nghệ thuật của Nhà hát Tuồng Việt Nam đã 
đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Nhà hát đã tiếp cận nhiều nhóm đối tượng phong 
phú từ sinh viên các trường đại học (gồm cả khối khoa học- xã hội nhân văn và khối kinh 
tế) đến học sinh các trường trung học cơ sở và tiểu học ở nhiều tỉnh, thành phố khác nhau 
nhưng chủ yếu thuộc địa bàn Hà Nội và các tỉnh lân cận. 
 Nội dung chương trình giáo dục nghệ thuật tuồng đã được thiết kế tương đối khoa 
học, phù hợp với đối tượng. Trước khi đoàn nghệ sĩ đến nói chuyện và biểu diễn, nhiều 
trường đã được phát đĩa hình ghi những trích đoạn tuồng để học sinh xem trên lớp. Kết 
cấu một chương trình gồm phần diễn giải hết hợp biểu diễn trích đoạn và giao lưu với 
học sinh đã làm chương trình mang tính trực quan sinh động và tạo cơ hội tương tác giữa 
nghệ sĩ và khán giả. Tất cả đã làm tuồng trở nên gần gũi, dễ hiểu và hấp dẫn với thế hệ 
trẻ. Các chương trình cũng được xây dựng với mức độ phức tạp khác nhau, tùy thuộc vào 
từng nhóm đối tượng. Chương trình cho học sinh tiểu học thường đơn giản trong khi 
chương trình với sinh viên có thể đi sâu vào các đặc trưng thể loại của nghệ thuật tuồng. 
Qua quá trình thực hiện, Nhà hát Tuồng đã điều chỉnh linh hoạt để chương trình mang 
tính thực tế hơn. Giai đoạn đầu, chương trình tập trung vào việc bồi dưỡng năng khiếu 
thông qua dạy một số học sinh biểu diễn tuồng. Nhận thấy như vậy là khó đối với học 
sinh và kết quả chỉ đạt mức nghiệp dư, Nhà hát đã chuyển hướng sang các chương trình 
giới thiệu chung cho đông đảo học sinh. Nhà hát nhận thức rõ: “đây là hoạt động đào tạo 
khán giả chứ không phải là đào tạo diễn viên”. 
 Về hiệu quả của chương trình, từ góc độ định lượng, có thể đo bằng số lượng các 
chương trình giới thiệu mà nhà hát đã thực hiện, số lượng nhà trường cũng như số học 
sinh, giáo viên đã tham gia. Những hiệu quả về mặt định tính thì khó nhận biết hơn vì ở 
dạng vô hình và nhiều khi chỉ phát huy hiệu quả sau một khoảng thời gian dài. Cần có 
những điều tra, tổng kết để nhìn nhận rõ hơn hiệu quả xã hội của hoạt động. Tuy nhiên, 
qua điều tra sơ bộ về phản hồi của học sinh, sinh viên, có thể nhận định: chương trình đã 
đạt hiệu quả khả quan. Đa số các em đều thích thú, say sưa theo dõi chương trình và đặt 
nhiều câu hỏi cho nghệ sĩ. Xem xong, nhiều em phát biểu cảm tưởng thể hiện sự hào 
hứng khi biết thêm nhiều điều mới lạ về tuồng, có em nói về sự thay đổi trong cảm nhận 
như trước đây cho rằng tuồng nặng nề, khó hiểu, cổ lỗ thì nay thấy tuồng có thể hiểu 
được và loại hình nghệ thuật này có năng lực biểu cảm độc đáo. 
 Hạn chế 
 Tuy đã có nhiều cố gắng, sáng tạo và đổi mới trong hoạt động giáo dục nghệ thuật 
tuồng, công tác này vẫn còn một số bất cập nhất định. 
 Nhìn chung, có thể thấy các chương trình giáo dục mang tính chất đại trà nên bên 
cạnh ưu điểm có thể quảng bá tới một số lượng lớn học sinh, sinh viên, chương trình còn 
thiếu tính cá thể hóa dẫn đến hiệu quả chưa cao. Ví dụ, ngay trong cấp tiểu học, khối lớp 
1 và khối lớp 5 đã có những khác biệt khá lớn về trình độ nhận thức và mối quan tâm. 
Mặt khác, do số lượng học sinh quá đông nên đã hạn chế rất nhiều đến sự tham dự của 
học sinh trong chương trình. Hàng ngàn học sinh chủ yếu chỉ ngồi nghe và xem một cách 
thụ động, ngoại trừ vài ba em được dịp đặt câu hỏi hay trả lời, giao lưu với các nghệ sĩ. 
Như vậy, tính tích cực, chủ động và sự tìm tòi, khám phá của các em đã bị hạn chế rất 
nhiều. Những trải nghiệm trực tiếp (hand-on experience) khi các em được tự mình đánh 
trống, thổi kèn, sử dụng các đạo cụ tuồng cũng hiếm hoi, khiến cảm nhận của các em 
chưa thể đạt đến mức độ sâu sắc. 
 Chương trình giáo dục đối với mỗi trường thường là một buổi duy nhất nên chưa 
thể giúp học sinh hiểu cặn kẽ về nghệ thuật tuồng. Hơn nữa, chỉ một buổi như vậy không 
đủ sức mạnh để làm các em thực sự quan tâm đến tuồng và trở thành khán giả đi xem 
tuồng trong tương lai. “Bữa tiệc vui” nhanh chóng qua đi, thiếu những hoạt động tiếp nối 
để củng cố, mở rộng hiểu biết; tri thức của các em về tuồng vì thế sẽ không thể “đến nơi, 
đến chốn”. 
 Từ góc độ quản lý, có thể thấy, Nhà hát chưa quan tâm đúng mức đến việc đánh giá 
hiệu quả các chương trình giáo dục nghệ thuật Tuồng. Nhà hát cố gắng hoàn thành định 
mức hoạt động mỗi năm nhưng chưa thực hiện các điều tra xã hội học để có những đánh 
giá khách quan, hệ thống về kết quả hoạt động. Các cán bộ quản lý của nhà hát cũng 
nhận định “lẽ ra cần trao đổi, tổng kết nhiều hơn” về hoạt động này. 
 3. Suy nghĩ về hướng phát triển trong tương lai 
 Trước hết, cần khẳng định phát triển hoạt động giáo dục của Nhà hát Tuồng Việt 
Nam cũng như của các đơn vị nghệ thuật nước ta là hướng đi đúng đắn và mang tính tất 
yếu trong điều kiện chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa. Đây là nhận thức mới trong quản lý văn hóa, coi giáo dục nghệ thuật là một hoạt 

File đính kèm:

  • pdfdua_nghe_thuat_tuong_den_khan_gia_tre.pdf