Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay

Giáo dục đại học là một trong những

nội dung hết sức quan trọng của hầu hết các

nền giáo dục quốc gia trong thế giới đương

đại. Trong bối cảnh thế giới ngày càng xích

lại gần nhau trong môi trường toàn cầu hóa,

công tác tổ chức giáo dục đại học ở mỗi

quốc gia do đó cũng cần phải thay đổi theo

với các mức độ khác nhau cho phù hợp.

Cùng với quá trình đổi mới và hội nhập

quốc tế chung của đất nước, giáo dục đại

học Việt Nam cũng cần được đổi mới theo

xu hướng hội nhập quốc tế với phương

châm tiệm cận được những chuẩn chung

của thế giới nhưng cũng cần giữ được

những nét đặc thù của giáo dục đại học

nước nhà trong bối cảnh đất nước đang hội

nhập sâu rộng vào không gian chung của

thế giới hiện nay.

Giáo dục đại học (higher education)

là giai đoạn giáo dục thường diễn ra ở các

trường đại học, viện đại học, đại học,

trường cao đẳng, học viện, và viện công

nghệ. Tại Việt Nam hiện nay, mặc dù chưa

có định nghĩa chính thức về giáo dục đại

học1 nhưng qua các văn bản nghiên cứu đã

được công bố có thể hiểu giáo dục đại học

là hình thức tổ chức giáo dục cho các bậc

học sau giai đoạn bậc phổ thông với các

trình độ đào tạo: gồm trình độ cao đẳng,

trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ

tiến sĩ.

Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay trang 1

Trang 1

Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay trang 2

Trang 2

Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay trang 3

Trang 3

Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay trang 4

Trang 4

Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay trang 5

Trang 5

Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay trang 6

Trang 6

Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 03/01/2022 7320
Bạn đang xem tài liệu "Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay

Đổi mới giáo dục đại học theo hướng hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 7 * 2014 1 
ĐỔI MỚI GIÁO DỤC ĐẠI HỌC THEO HƯỚNG HỘI NHẬP QUỐC TẾ 
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 
Phạm Công Nhất* 
Tóm tắt 
Giáo dục đại học là một trong những nội dung hết sức quan trọng của hầu hết các nền 
giáo dục quốc gia trong thế giới đương đại. Tại Việt Nam, công tác giáo dục đại học đã được 
Đảng và Nhà nước ta quan tâm và đã đạt được những thành tựu quan trọng góp phần phát triển 
nguồn nhân lực đất nước qua các thời kỳ cách mạng. Tuy vậy, trong bối cảnh đổi mới và hội 
nhập quốc tế hiện nay, giáo dục đại học ở nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn và những 
thách thức đòi hỏi cần có những giải pháp khắc phục căn bản và toàn diện, trong đó yếu tố hội 
nhập quốc tế được coi là một trong những giải pháp căn bản để đưa giáo dục đại học Việt Nam 
tiếp tục phát triển. 
Từ khóa: đổi mới giáo dục đại học, hội nhập quốc tế, giáo dục đại học Việt Nam. 
1. Đặt vấn đề 
Giáo dục đại học là một trong những 
nội dung hết sức quan trọng của hầu hết các 
nền giáo dục quốc gia trong thế giới đương 
đại. Trong bối cảnh thế giới ngày càng xích 
lại gần nhau trong môi trường toàn cầu hóa, 
công tác tổ chức giáo dục đại học ở mỗi 
quốc gia do đó cũng cần phải thay đổi theo 
với các mức độ khác nhau cho phù hợp. 
Cùng với quá trình đổi mới và hội nhập 
quốc tế chung của đất nước, giáo dục đại 
học Việt Nam cũng cần được đổi mới theo 
xu hướng hội nhập quốc tế với phương 
châm tiệm cận được những chuẩn chung 
của thế giới nhưng cũng cần giữ được 
những nét đặc thù của giáo dục đại học 
nước nhà trong bối cảnh đất nước đang hội 
nhập sâu rộng vào không gian chung của 
thế giới hiện nay. 
Giáo dục đại học (higher education) 
là giai đoạn giáo dục thường diễn ra ở các 
trường đại học, viện đại học, đại học, 
trường cao đẳng, học viện, và viện công 
nghệ. Tại Việt Nam hiện nay, mặc dù chưa 
có định nghĩa chính thức về giáo dục đại 
_______________________ 
*
 PGS, TS, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN 
học1 nhưng qua các văn bản nghiên cứu đã 
được công bố có thể hiểu giáo dục đại học 
là hình thức tổ chức giáo dục cho các bậc 
học sau giai đoạn bậc phổ thông với các 
trình độ đào tạo: gồm trình độ cao đẳng, 
trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ 
tiến sĩ. 
Xét về mặt lịch sử, nền giáo dục đại 
học đã xuất hiện ở nước ta cách đây trên cả 
nghìn năm2. Cho đến nay, lịch sử giáo dục 
đại học Việt Nam đã trải qua các nền giáo 
dục khác nhau: phong kiến, thuộc địa và 
chủ nghĩa thực dân mới (ở miền Nam Việt 
Nam trước 1975). Sự nghiệp giáo dục đại 
học trong cuộc cách mạng mới ở Việt Nam 
ra đời từ sau cách mạng Tháng Tám 1945 
cho đến nay đã gần 70 năm. Trong gần 70 
năm qua, giáo dục đại học Việt Nam đã đạt 
được những thành tựu hết sức quan trọng. 
Trong đó, thành tựu quan trọng nhất chính 
1 Luật giáo dục đại học của Việt Nam năm 2012 
trong phần giải thích từ ngữ (Điều 4) không nêu 
định nghĩa về giáo dục đại học. 
2 Năm 1070 dưới triều vua Lý Nhân Tông đã cho 
xây dựng nhà Quốc Tử Giám dùng làm nơi mở 
khoa thi tuyển chọn nhân tài cho đất nước, đây 
được coi là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam. 
2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN 
là nó đã góp phần tạo ra các thế hệ nguồn 
lực con người Việt Nam nhân tố quyết định 
đến thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải 
phóng dân tộc, trong sự nghiệp xây dựng 
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc trước đây và 
cả nước hiện nay. Tuy nhiên, khi bước vào 
giai đoạn đổi mới và quá trình hội nhập 
quốc tế ngày càng sâu hơn thì nền giáo dục 
của chúng ta ngày càng bộc những bất cập 
và hạn chế. Trong bài báo này, chúng tôi 
chỉ phân tích sự hạn chế, bất cập của giáo 
dục đại học Việt Nam so với với xu hướng 
phát triển giáo dục đại học phổ biến trên 
thế giới hiện nay trên ba phương diện: mục 
tiêu, nội dung và phương pháp, hình thức tổ 
chức dạy học. 
2. Thực trạng về mục tiêu, nội dung, 
phương pháp và hình thức tổ chức dạy 
học ở giáo dục đại học 
 Về mục tiêu, một thời gian dài do 
nhiều nguyên nhân khác nhau nên chúng ta 
chưa chú trọng đúng mức đến việc đặt ra 
mục tiêu cho nền giáo dục của quốc gia 
trong đó có giáo dục đại học. Thời gian gần 
đây, mặc dù mục tiêu giáo dục đại học ở 
nước ta có sự thay đổi như quan niệm mục 
đích của giáo dục đại học là đào tạo nhân 
tài (Luật giáo dục Việt Nam năm 2012). 
Nhưng hiểu thế nào là nhân tài thì hiện nay 
quan niệm của chúng ta còn chưa thống nhất. 
Nếu coi nhân tài là người có sáng kiến, có khả 
năng, năng động đóng góp thêm một bước 
quan trọng vào sự phát triển dù trong lĩnh 
vực nghiên cứu lý luận hay hoạt động thực 
tiễn, nghĩa là nhân tài phải là những người 
nổi trội và hiếm trong xã hội thì mục tiêu 
này khó đặt ra đối với chất lượng thực tế 
của giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. 
Trong thực tế, các trường đại học Việt Nam 
hiện nay nhiều lắm chỉ có khả năng trang bị 
cho người học (sinh viên, học viên hay 
nghiên cứu sinh) kiến thức cơ bản, trang 
bị tinh thần phân tích độc lập, dám suy nghĩ 
và biết suy nghĩ (suy nghĩ có ph ... 
bản khiến nền giáo dục đại học Việt Nam 
đang có xu hướng tụt hậu hậu hiện nay. 
Về phương pháp và hình thức tổ chức 
dạy học đại học ở nước ta hiện nay nhìn 
chung chưa tiếp cận được các phương pháp 
và hình thức tổ chức dạy học đại học phổ 
biến của thế giới. Với mục tiêu “nhấn mạnh 
đến kỹ năng xử lý vấn đề đặt ra trong cuộc 
sống hơn là tập trung vào việc làm đầy kiến 
thức đã có sẵn”, nên việc áp dụng các 
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học 
của các trường đại học hiện nay trên thế 
giới thường rất linh hoạt dựa trên tinh thần 
đề cao vai trò của người học, tạo điều kiện 
tối đa cho người học có thể tự học, tự 
5 Vũ Quang Việt, So sánh chương trình giáo dục 
đại học Mỹ và Việt Nam – Tài liệu đã dẫn, tr. 3. 
4 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN 
nghiên cứu. Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện 
nay do quan niệm “nền giáo dục cần trang 
bị cho người học một lượng kiến thức càng 
nhiều càng tốt để họ có thể có một nền tảng 
vững chãi khi ra trường”6 nên vai trò, vị trí 
của người học chưa thực sự được quan tâm. 
Các phương pháp và hình thức tổ chức dạy 
học còn khá lạc hậu. Kết quả khảo sát thực 
địa của Viện Hàn lâm Quốc gia Hoa Kỳ 
năm 2006 có phần nhận xét về phương 
pháp dạy và học đại học của Việt Nam như 
sau: “Phương pháp giảng dạy không hiệu 
quả, quá phụ thuộc vào các bài thuyết trình 
và ít sử dụng các kỹ năng học tích cực, kết 
quả là có ít sự tương tác giữa sinh viên và 
giảng viên trong và ngoài lớp học; Quá 
nhấn mạnh vào ghi nhớ kiến thức theo kiểu 
thuộc lòng mà không nhấn mạnh vào việc 
học khái niệm hoặc học ở cấp độ cao (như 
phân tích và tổng hợp), dẫn đến hậu quả là 
học hời hợt thay vì học chuyên sâu; Sinh 
viên học một cách thụ động7. Mặc dù, 
những năm gần đây theo chủ trương của Bộ 
Giáo dục và Đào tạo, nhiều trường đại học, 
cao đẳng trong cả nước đã bắt đầu áp dụng 
phương pháp giảng dạy cho sinh viên theo 
phương thức tín chỉ nhưng theo nhiều 
chuyên gia đánh giá: “đào tạo tín chỉ ở Việt 
Nam hiện chưa thực sự đúng với tinh thần 
của tín chỉ. Cách dạy, học vẫn còn chưa 
thoát khỏi tinh thần niên chế. Tính chủ 
động của sinh viên còn yếu kém”8. Sự đổi 
mới về phương pháp giảng dạy trong các 
trường đại học ở nước ta hiện nay nhiều khi 
chỉ mang tính hình thức. Thiết bị giảng dạy 
như: máy chiếu, video ... chỉ là phương tiện 
hỗ trợ để nâng cao chất lượng giảng dạy 
6 Lê Minh Khôi: Giáo dục Việt Nam - nguy cơ tụt 
hậu khi ra trường ( 
7
 Ngô Tứ Thành: Cần đổi mới cách giảng dạy ở 
đại học, dantri.com.vn, ngày 12/3/2010. 
8
 Mỹ Quyên: Đào tạo tín chỉ ở Việt Nam còn 
nhiều bất cập, Báo Thanh niên, ngày 14/2/2012 
nhưng quan trọng hơn cả là việc ý thức 
được giáo dục phải mang tính sáng tạo, tinh 
thần trách nhiệm thể hiện qua việc cải tiến 
về phương pháp và chương trình học thì 
vẫn chưa được chú trọng. 
Các bất cập, yếu kém trên đây đang 
góp phần tạo ra sự tụt hậu trong giáo dục 
đại học ở Việt Nam và sự tụt hậu này đã và 
đang tác động tiêu cực đến nhiều mặt khác 
nhau trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội: 
Một là, chất lượng nguồn nhân lực 
sau đào tạo chưa chưa đáp ứng được yêu 
cầu của thực tế. Theo một nghiên cứu tại 60 
doanh nghiệp trong lĩnh dịch vụ công 
nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh khi 
khảo sát về “Đánh giá mức độ hài lòng của 
doanh nghiệp về chất lượng của sinh viên 
được đào tạo trong 5 năm đầu tiên sau khi 
tốt nghiệp (đánh giá dựa trên các tiêu chí 
kiến thức lý thuyết, kỹ năng thực hành, 
trình độ ngoại ngữ, tác phong làm việc và 
năng lực nghề nghiệp) cho thấy chỉ có 5% 
trong tổng số sinh viên tham gia khảo sát 
được đánh giá ở mức độ tốt, 15% mức độ 
khá, 30% mức độ trung bình và 40% mức 
độ không đạt9. Kết quả này không chỉ phản 
ánh yếu kém trong giáo dục đại học ở Việt 
Nam hiện nay mà gián tiếp chỉ báo một 
nguy cơ cho thấy trong điều kiện các doanh 
nghiệp đã và đang sử dụng công nghệ tự 
động trong quản lý nhân lực, nếu lao động 
Việt Nam không tích cực nâng cao trình độ 
chuyên môn, rèn luyện tác phong công 
nghiệp, tính kỷ luật, chuyên nghiệp sẽ tụt 
hậu so với các nước khác trong khu vực. 
 Hai là, hạn chế về khả năng nghiên 
cứu và công bố các kết quả nghiên cứu. 
Hầu hết các nền giáo dục tiên tiến của các 
quốc gia trong khu vực và trên thế giới hiện 
nay đều có khả năng tạo ra một đội ngũ các 
9
 Doanh nghiệp “chấm điểm” sinh viên ( Báo Tuổi 
trẻ online, ngày 22/5/2014) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 7 * 2014 5 
nhà khoa học đông đảo có khả năng nghiên 
cứu và công bố các kết quả nghiên cứu 
trong nước và quốc tế với số lượng lớn. 
Cùng với xu thế hội nhập, số lượng và chất 
lượng ấn phẩm khoa học quốc tế trở thành 
thước đo quan trọng, chỉ số khách quan 
không chỉ phản ánh sự phát triển khoa học 
công nghệ cũng như hiệu suất khoa học mà 
còn phản ánh trình độ và chất lượng thực tế 
nền giáo dục của mỗi quốc gia. Tại Việt 
Nam những năm gần đây mặt dù đã có sự 
quan tâm của của nhiều cơ sở giáo dục 
trong việc tạo cơ chế khuyến khích các nhà 
khoa học tập trung nghiên cứu và công bố 
các kết quả nghiên cứu trong nước và quốc 
tế nhưng kết quả vẫn còn hạn chế. Nếu so 
sánh với các kết quả nghiên cứu và công bố 
các kết quả nghiên cứu của nhiều quốc gia 
trong khu vực và trên thế giới thì khả năng 
của chúng ta còn nhiều hạn chế, thậm chí 
có xu hướng ngày càng tụt hậu xa hơn. 
Theo thống kê của Viện thông tin khoa học 
(ISI), trong 15 năm qua (1996-2011) Việt 
Nam mới có 13.172 ấn phẩm khoa học 
công bố trên các tập san quốc tế có bình 
duyệt, bằng khoảng một phần năm của Thái 
Lan (69.637), một phần sáu của Malaysia 
(75.530), và một phần mười của Singapore 
(126.881). Trong khi đó, dân số Việt Nam 
gấp 17 lần Singapore, ba lần Malaysia và 
gần gấp rưỡi Thái lan. Việt Nam hiện nay 
có khoảng 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 
24.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ mà số 
ấn phẩm khoa học của cả nước trong vòng 
15 năm qua chưa bằng 1/5 số công bố của 
trường Đại học Tokyo (69,806 ấn phẩm) và 
một nửa của trường Đại học quốc gia 
Singapore (28,070 ấn phẩm)10.Không chỉ 
khiêm tốn về số lượng, chỉ số ảnh hưởng 
của các công trình nghiên cứu khoa học của 
10
 Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Đại học New South 
Wales, Australia 
Việt Nam cũng thấp nhất so với những 
nước trong khu vực. Thứ hạng khiêm tốn 
này cũng nhất quán với số bằng sáng chế 
được đăng ký ở Mỹ và chỉ số sáng tạo do Tổ 
chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) xếp hạng. 
Có nhiều nguyên nhân cho tình trạng 
trên nhưng nguyên nhân sâu xa lại bắt 
nguồn từ tình trạng hạn chế, bất cập trong 
việc tổ chức giáo dục đại học ở nước ta ngay 
từ đầu đã ít có khả năng tạo ra một đội ngũ 
các nhà khoa học có khả năng đáp ứng đầy 
đủ cả về số lượng và chất lượng nghiên cứu. 
Ba là, làm giảm khả năng cạnh tranh 
của nền kinh tế của đất nước trong điều 
kiện hội nhập quốc tế. Thực tế cho thấy, sự 
bất cập, hạn chế trong giáo dục đại học ở 
nước ta hiện nay không chỉ tác động trực 
tiếp đến việc làm suy giảm chất lượng 
nguồn nhân lực mà sâu xa hơn có thể làm 
suy giảm đến khả năng cạnh tranh toàn cầu 
của nền kinh tế đất nước trong điều kiện 
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Theo 
Báo cáo về Tính Cạnh tranh năng lực toàn 
cầu 2013-2014 được thực hiện với 148 
nước của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) 
thì Tính hiệu quả của hệ thống giáo dục 
Việt Nam được xếp ở vị trí 67/144. Ở hạng 
mục Giáo dục đại học và đào tạo, Việt Nam 
đứng thứ 95 trong bảng xếp hạng, thứ 7 
trong các nước ASEAN:sau Singapore (2), 
Malaysia (46), Brunei (55), Thái Lan (66), 
Indonesia (64), Philippines (67). Điều đáng 
nói là phần liên quan đến giáo dục được 
WEF xếp vào tiêu chí thứ 4 (sức khỏe và 
giáo dục cơ sở) và 5 (chất lượng giáo dục 
và đào tạo cấp cao) trong số 12 tiêu chí 
then chốt giúp hiệu quả cạnh tranh của nền 
kinh tế11. 
Có thể, những con số so sánh trên 
đây chưa phản ánh đầy đủ và thực chất của 
11
 Giáo dục Việt Nam thua cả Campuchia (Người 
lao động online, ngày 06/09/2013) 
6 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN 
giáo dục Việt Nam hiện nay nhưng nó cũng 
là hồi chuông cảnh tỉnh nhắc nhở chúng ta 
cần có ngay các giải pháp để đổi mới có 
hiệu quả giáo dục nước nhà trong đó có 
giáo dục đại học nếu không muốn nó ngày 
càng tụt hậu xa hơn so với các quốc gia 
trong khu vực và trên thế giới. 
3. Các giải pháp đề xuất đổi mới giáo dục 
đại học 
Cùng với quá trình đổi mới đất nước 
nói chung vấn đề đổi mới nền giáo dục 
nước nhà trong đó có giáo dục đại học Việt 
Nam hiện nay luôn được Đảng và Nhà 
nước ta quan tâm. Văn kiện Đại hội XI của 
Đảng khẳng định “Đổi mới căn bản và toàn 
diện giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn 
hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá 
và hội nhập quốc tế”12. Ngày 4/11/2013, 
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản 
Việt Nam tiếp tục ra Nghị quyết Số: 29-
NQ/TW về “Đổi mới căn bản, toàn diện 
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện 
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa và hội nhập quốc tế”, trong đó đã nêu 
chín giải pháp cho việc đổi mới giáo dục 
toàn diện. Từ chín giải pháp mang tính định 
hướng trên đây, đồng thời căn cứ vào 
những kết quả phân tích từ phần đầu bài 
viết chúng tôi mạnh dạn đề xuất một số giải 
pháp và khuyến nghị nhằm tiếp tục đổi mới 
hơn nữa giáo dục đại học Việt Nam trong 
điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay. 
Thứ nhất, cần xây dựng triết lý giáo 
dục cho nền giáo dục nước nhà trong giai 
đoạn hiện nay, đồng thời mỗi trường đại 
học, mỗi cơ sở giáo dục cũng cần có triết lý 
giáo dục riêng phù hợp với tôn chỉ, mục 
đích và hướng tới hội nhập vào dòng chảy 
12
 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại 
biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị Quốc 
gia, Hà Nôi, 2011, tr.130-131. 
phát triển chung của giáo dục quốc tế. 
Thứ hai, việc đổi mới tư duy giáo dục 
hiện nay cần“gắn với xây dựng xã hội học 
tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất 
lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ 
hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ 
thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định 
hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. 
Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt 
Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”13 
như Nghị quyết Trung ương 8, Khóa XI 
của Đảng khẳng định thì các cấp, các 
ngành, trước hết là Bội Giáo dục và Đào 
tạo cần có sự thay đổi một cách mạnh mẽ 
về tư duy trong tổ chức giáo dục đại học, 
như: thay đổi cách tuyển sinh lựa chọn 
“đầu vào” theo hướng thoáng hơn, cho 
phép các cơ sở giáo dục đại học tự đặt ra 
các tiêu chuẩn tuyển sinh và chịu trách 
nhiệm với người học bằng chính “uy tín” 
của mình, cho phép hình thành nhiều mô 
hình đào tạo đại học khác nhau, kiểm soát 
chặt chẽ “đầu ra” của mỗi cơ sở đào tạo để 
đảm bảo chất lượng chung v.v.. 
Thứ ba, đối mới mạnh mẽ nội dung 
chương trình và phương pháp dạy học theo 
hướng hội nhập quốc tế. Về nội dung 
chương trình và giáo trình cần được tổ chức 
xây dựng và triển khai theo hướng mở (cho 
phép cập nhật thường xuyên về kiến thức 
trong và ngoài nước, sử dụng giáo trình, 
học liệu trong nước hoặc ngoài nước một 
cách linh hoạt để giảng dạy cho người học), 
nội dung giảng dạy phải gắn chặt và phù 
hợp với yêu cầu thực tiễn của ngành nghề 
mà người học đang theo đuổi. Về phương 
pháp, tích cực sử dụng đa dạng các phương 
pháp dạy học theo nguyên tắc “lấy người 
học là trung tâm”, giảm tải tối đa giờ giảng 
13
 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị 
Ban chấp hành Trung ương lần thứ Tám (Khóa 
XI). Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2013. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 7 * 2014 7 
trên lớp để người học có thời gian tự học và 
tự nghiên cứu. Cố nhiên, các cơ sở đào tạo 
cần thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, 
đánh giá khách quan, chặt chẽ để đảm bảo 
tính hiệu quả của việc dạy và học. 
Thứ tư, đổi mới vai trò của các cơ 
quan quản lý nhà nước trong tổ chức giáo 
dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc 
tế. Theo đó, về mặt pháp lý cần tiếp tục bổ 
sung, hoàn thiện các quy định về pháp luật 
đối với các hoạt động giáo dục đại học 
trong điều kiện hội nhập quốc tế. Các cơ 
quan quản lí nhà nước mà trực tiếp là Bộ 
Giáo dục và Đào tạo cần thay đổi cách tư 
duy về quản lí đối với các hoạt động giáo 
dục đại học trong điều kiện hội nhập quốc 
tế. Thay vì trực tiếp quản lí toàn diện đối 
với các cơ sở giáo dục đại học thì các cơ 
quan quản lí nhà nước chỉ nên đóng vai trò 
là các cơ quan “tài phán”, định hướng các 
hoạt động theo luật pháp, đồng thời tạo 
điều kiện để cho các cơ sở giáo dục đại học 
được độc lập, tự chủ hơn trong các hoạt 
động. Cần tránh lối tư duy quản lý theo lối 
áp đặt, hoặc “bao cấp” đối với các hoạt 
động giáo dục đại học trong điều kiện hội 
nhập quốc tế hiện nay. 
Thứ năm, tăng cường các hoạt động 
nghiên cứu và công bố quốc tế tiến tới quốc 
tế hóa các tiêu chuẩn đánh giá khoa học và 
các hoạt động về chuyên môn tại các cơ sở 
giáo dục đại học. Trước mắt nhà nước, các 
cơ sở giáo dục đại học cần có các cơ chế 
chính sách động viên, khuyến khích các 
nhà khoa học nghiên cứu và tích cực công 
bố quốc tế các kết quả nghiên cứu. Về lâu 
dài cần đặt ra lộ trình (đối với mỗi cơ sở 
giáo dục đại học khác nhau cần có những lộ 
trình khác nhau) tiến tới quốc tế hóa các 
tiêu chuẩn đánh giá các hoạt động khoa học 
và các hoạt động về chuyên môn trong tất 
cả các cơ sở giáo dục đại học, đồng thời 
cần coi đây là giải pháp quan trọng để đưa 
giáo dục đại học Việt Nam hội nhập sâu 
hơn vào môi trường quốc tế 
4. Kết luận 
Có vai trò và vị trí hết sức quan trọng 
trong nền giáo dục nói chung, giáo dục đại 
học Việt Nam đang đứng trước yêu cầu cần 
có sự đổi mới toàn diện cả về mục tiêu, nội 
dung và phương pháp thực hiện. Trên cơ sở 
phân tích thực trạng và chỉ rõ các nguyên 
nhân hạn chế, bất cập bài viết này đã mạnh 
dạn đề xuất một số giải pháp đổi mới giáo 
dục đại học Việt Nam trong điều kiện mới, 
trong đó đặc biệt nhấn mạnh một số giải 
pháp hướng tới xây dựng một nền giáo dục 
đại học Việt Nam mở đáp ứng tốt các yêu 
cầu phát triển của quốc gia trong điều kiện 
mới và hội nhập quốc tế. 
Abstract 
Innovation of Higher Education towards Global Integration 
in our Country Today 
Higher education is one of the crucial contents in most of the national educational 
systems in the contemporary world. In Vietnam, higher education has been the Party and State's 
interest and has obtained significant achievements contributing to human resource development 
for the country through the revolutionary periods. However, in the context of current innovation 
and global integration, our country’s higher education is facing many difficulties and 
challenges requiring fundamental and comprehensive corrective solutions, among which, the 
factor of international integration is considered one of the key measures to enable Vietnam 
higher education to develop more and more. 
Keywords: higher education innovation, international integration, Vietnam Higher Education 

File đính kèm:

  • pdfdoi_moi_giao_duc_dai_hoc_theo_huong_hoi_nhap_quoc_te_o_nuoc.pdf