Định hướng tăng trưởng xanh ở Việt Nam trong cách mạng công nghiệp 4.0
Tăng trưởng xanh là tăng trưởng cần thiết trong thời gian khủng hoảng kinh tế, khủng
hoảng sinh thái trên toàn thề giới, như một phương thức tối ưu mà các nhà kinh tế, môi
trường. nghĩ đến để ngăn chặn những thách thức của biến đổi khí hậu đang ngày càng ảnh
hưởng mạnh mẽ đến đời sống con người. Tăng trường xanh đã và đang được nhiều quốc gia
lựa chọn là mô hình phát triển mới để giải quyết đồng thời những vấn nạn đang tiếp diễn
phức tạp: tài nguyên trên thế giới đang dần cạn kiệt, đa dạng sinh học bị suy giảm, ô nhiễm
môi trường tiếp tục gia tăng, biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét. Ở Việt Nam Bộ Kế hoạch và
Đầu tư đã công bố “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm
nhìn đến năm 2050”. Tuy vậy, làm sao để hiện thực hóa và có hiệu quả thì cần phải có những
giải pháp mang tính đồng bộ. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) được đánh giá
đem lại cơ hội lớn cho nước ta, khi lần đầu được tham gia một “sân chơi” không biên giới,
không khoảng cách, sau ba lần lỡ nhịp các cuộc CMCN về cơ khí, điện khí hóa và tự động
hóa trước đó. Nếu không chớp được cơ hội vàng này, dự báo những nguy cơ, thách thức mà
chúng ta phải đối mặt sẽ hết sức khốc liệt. Bài viết dựa trên những lợi thế sẵn có của Việt
Nam, kết hợp với những bài học kinh nghiệm của nhiều quốc gia khác trên thế giới trong việc
thực hiện tăng trưởng xanh và những cơ hội và thách thức mà cuộc CMCN 4.0 đặt ra, để đề
xuất những giải pháp, mang tính gợi ý hi vọng đóng góp phần nào trong công cuộc định
hướng tăng trưởng xanh ở nước ta hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Định hướng tăng trưởng xanh ở Việt Nam trong cách mạng công nghiệp 4.0
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 202 ĐỊNH HƢỚNG TĂNG TRƢỞNG XANH Ở VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Nguyễn Thị Thu Trang Đại học Ngân hàng TP.Hồ Chí Minh TÓM TẮT Tăng trưởng xanh là tăng trưởng cần thiết trong thời gian khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng sinh thái trên toàn thề giới, như một phương thức tối ưu mà các nhà kinh tế, môi trường... nghĩ đến để ngăn chặn những thách thức của biến đổi khí hậu đang ngày càng ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống con người. Tăng trường xanh đã và đang được nhiều quốc gia lựa chọn là mô hình phát triển mới để giải quyết đồng thời những vấn nạn đang tiếp diễn phức tạp: tài nguyên trên thế giới đang dần cạn kiệt, đa dạng sinh học bị suy giảm, ô nhiễm môi trường tiếp tục gia tăng, biến đổi khí hậu ngày càng rõ nét. Ở Việt Nam Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã công bố “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”. Tuy vậy, làm sao để hiện thực hóa và có hiệu quả thì cần phải có những giải pháp mang tính đồng bộ. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) được đánh giá đem lại cơ hội lớn cho nước ta, khi lần đầu được tham gia một “sân chơi” không biên giới, không khoảng cách, sau ba lần lỡ nhịp các cuộc CMCN về cơ khí, điện khí hóa và tự động hóa trước đó. Nếu không chớp được cơ hội vàng này, dự báo những nguy cơ, thách thức mà chúng ta phải đối mặt sẽ hết sức khốc liệt.. Bài viết dựa trên những lợi thế sẵn có của Việt Nam, kết hợp với những bài học kinh nghiệm của nhiều quốc gia khác trên thế giới trong việc thực hiện tăng trưởng xanh và những cơ hội và thách thức mà cuộc CMCN 4.0 đặt ra, để đề xuất những giải pháp, mang tính gợi ý hi vọng đóng góp phần nào trong công cuộc định hướng tăng trưởng xanh ở nước ta hiện nay. Từ khóa: tăng trưởng xanh, mô hình tăng trưởng xanh, định hướng tăng trưởng xanh, tăng trưởng, cách mạng công nghiệp 4.0. Đặt vấn đề Mô hình tăng trưởng hướng tới sự phát triển bền vững mà cộng đồng quốc tế thừa nhận và đang phấn đấu thực hiện là tăng trưởng xanh. Ðây là khái niệm mới nên mặc dù hầu hết các nước đều thống nhất với nhau về mặt ý chí, nhưng sự nhận thức, cách hiểu và cách áp dụng vẫn đang trong quá trình định hình. Trong xu thế phát triển chung của thế giới hiện nay và trong tương lai, Việt Nam không thể và không nên là ngoại lệ trong định hướng thúc đẩy tăng trưởng xanh. Kể từ khi thực hiện đường lối Ðổi mới và mở cửa với kinh tế thế giới (1986), chúng ta đã tiếp thu được nhiều tinh hoa tri thức quản lý kinh tế của thế giới và áp dụng thành công trong điều kiện hoàn cảnh Việt Nam; trong đó ý nghĩa nhất là đã xây dựng và vận hành được nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (đến nay đã có 37 nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường). Trong tiến trình hội nhập với thế giới của Việt Nam, việc áp dụng mô hình kinh tế xanh và thúc đẩy tăng trưởng xanh có nhiều điểm phù hợp và thuận lợi: (1) Nước ta nằm ở khu vực phát triển năng động nhất trên thế giới (Ðông - Nam Á), hướng ra Biển Ðông - một trong những tuyến đường hàng hải sôi động nhất trên thế giới; gần với khu vực Ðông Bắc Á đang là tiên phong trong tăng trưởng xanh của thế giới (Nhật Bản, Hàn Quốc); (2) Nền chính trị ổn định, xã hội thân thiện, dân số đông. Riêng yếu tố chính trị ổn định đã là một lợi thế so sánh của ta đối với các nước trong khu vực; (3) Vị trí địa hình tự nhiên và tính đa dạng sinh học cao mở ra cơ hội phát triển một số ngành kinh tế xanh mũi nhọn, đồng thời phát triển và sử dụng các loại năng lượng tái tạo; (4) Cảnh quan thiên nhiên phong phú với nhiều khu vực được công nhận là di sản thiên nhiên của thế giới, truyền thống văn hóa lịch sử đậm đà bản sắc dân tộc mở ra cơ hội để phát triển du lịch giải trí và xây dựng một nền công nghiệp văn hóa; (5) Quá trình hội nhập thành công của đất nước trong những TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 203 năm qua cũng tạo ra nội lực để thúc đẩy tăng trưởng xanh và chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế; mặt khác, chúng ta đi sau các nước trong việc tiếp cận nền kinh tế xanh nên có thể học hỏi, tiếp thu kinh nghiệm của các nước đã thành công; đồng thời có được sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế trong việc nghiên cứu phát triển xây dựng mô hình; (6) Trong khu vực FDI, hầu hết các tập đoàn nổi tiếng thế giới về công nghệ cao đều đã vào Việt Nam. Nếu chúng ta có chính sách phù hợp hơn nữa thì các tập đoàn này sẽ đẩy mạnh đầu tư công nghệ cao, góp phần nâng cao năng lực khoa học công nghệ của đất nước và kết nối với mạng sản xuất xanh toàn cầu. Tăng trưởng xanh thúc đẩy tạo việc làm và thu nhập cho người dân thông qua đầu tư của Nhà nước và tư nhân, mở mang các ngành nghề thân thiện với môi trường đang là một xu thế mới mà nhiều nước trên thế giới đang áp dụng. Trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, việc lựa chọn và thực hiện tăng trưởng xanh cũng đang trở thành con đường tất yếu trong định hướng phát triển bền vững mà Ðảng và Nhà nước ta đã xác định. Cuộc CMCN 4.0 mà ... lần thứ hai (từ 1870) đến khi loài người phát minh ra động cơ điện, mang lại cuộc sống văn minh, năng suất tăng nhiều lần so với động cơ hơi nước. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba (từ 1969) xuất hiện khi con người phát minh ra bóng bán dẫn, điện tử, kết nối thế giới liên lạc được với nhau. Vệ tinh, máy bay, máy tính, điện thoại, Internet là những công nghệ hiện nay chúng ta thụ hưởng là từ cuộc cách mạng này. Hiện nay, Công nghiệp 4.0 đã vượt ra khỏi khuôn khổ dự án của Đức với sự tham gia của nhiều nước và trở thành một phần quan trọng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thực trạng định hƣớng tăng trƣởng xanh ở Việt Nam trong cách mạng công nghiệp 4.0 Thành tựu - Tăng trưởng xanh thúc đẩy tạo việc làm và thu nhập cho người dân thông qua đầu tư của Nhà nước và tư nhân - Thúc đẩy phát triển các ngành nghề thân thiện với môi trường và - các dịch vụ sinh thái . - Góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống con người và công bằng xã hội, - Giảm đáng kể những rủi ro về môi trường và những tác động tiêu cực về sinh thái do hoạt động của con người. - Nâng cao hiệu quả, tính cạnh tranh của nền kinh tế, giảm phát thải khí nhà kính và ứng phó có hiệu quả với những tác động của biến đổi khí hậu. Mục tiêu chung của Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh là tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó, mục tiêu cụ thể là tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh hóa các ngành hiện có và khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên với giá trị gia tăng cao. Bên cạnh đó, nghiên cứu, ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng hiệu quả hơn tài nguyên thiên nhiên, giảm cường độ phác thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu; Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 207 trường thông qua tạo nhiều việc làm từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp dịch vụ xanh, đầu tư vào vốn tự nhiên, phát triển hạ tầng xanh. Mục tiêu cụ thể, giai đoạn 2011 - 2020: giảm cường độ phát thải nhà kính 8 -10% so với năm 2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 1 - 1,5% mỗi năm. Giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% so với phương án phát triển bình thường. Trong đó, mức tự nguyện khoảng 10%, 10% còn lại mức phấn đấu khi có thêm hỗ trợ quốc tế. Định hướng đến năm 2030: giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5 - 2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20% đến 30% so với phương án phát triển bình thường. Trong đó, mức tự nguyện khoảng 20%, 10% còn lại mức khi có thêm hỗ trợ quốc tế. Định hướng đến năm 2050: giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm từ 1,5-2%. Xanh hóa sản xuất: Thực hiện một chiến lược “công nghiệp hóa sạch” thông qua rà soát, điều chỉnh những quy hoạch ngành hiện có, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, khuyến khích phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp xanh với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân thiện với môi trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên; tích cực ngăn ngừa và xử lý ô nhiễm. Những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 gồm: Giá trị sản phẩm ngành công nghệ cao, công nghệ xanh trong GDP là 42 - 45%; tỷ lệ các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường là 80%, áp dụng công nghệ sạch hơn 50%, đầu tư phát triển các ngành hỗ trợ bảo vệ môi trường và làm giàu vốn tự nhiên phấn đấu đạt 3 - 4% GDP. Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững: Kết hợp nếp sống đẹp truyền thống với những phương tiện văn minh hiện đại để tạo nên đời sống tiện nghi, chất lượng cao mang đậm bản sắc dân tộc cho xã hội Việt Nam hiện đại. Thực hiện đô thị hóa nhanh, bền vững, duy trì lối sống hòa hợp với thiên nhiên ở nông thôn và tạo lập thói quen tiêu dùng bền vững trong bối cảnh hội nhập với thế giới toàn cầu. Những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 gồm: Tỷ lệ đô thị loại III có hệ thống thu gom và xử lý nước thải đạt quy chuẩn quy định: 60%, với đô thị loại IV, loại V và các làng nghề: 40%, cải thiện môi trường khu vực bị ô nhiễm nặng 100%, tỷ lệ chất thải được thu gom, xử lý hợp tiêu chuẩn theo Quyết định số 2149/QĐ-TTg, diện tích cây xanh đạt tương ứng tiêu chuẩn đô thị, tỷ trọng dịch vụ vận tải công cộng ở đô thị lớn và vừa 35 - 45%, tỷ lệ đô thị lớn và vừa đạt tiêu chí đô thị xanh phấn đấu đạt 50%. Là một quốc gia đang phát triển, trong 20 năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Tuy nhiên, kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng còn thấp, tăng trưởng kinh tế vẫn còn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Cùng với đó, tài nguyên chưa được coi là nguồn lực đặc biệt quan trọng, vai trò, giá trị của tài nguyên còn chưa được nhận thức đầy đủ, đánh giá đúng tầm. Điều đó dẫn đến hiệu quả sử dụng tài nguyên bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng bên cạnh cạnh các vấn nạn ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên bức xúc trong bối cảnh tác động biến đổi khí hậu tăng nhanh và diễn biến hết sức phức tạp. Cùng với những tác động tiêu cực từ những biến động nền kinh tế thế giới thời gian qua cũng như các vấn đề nội tại, nền kinh tế Việt Nam lại càng gặp nhiều thách thức, khó khăn.Trong bối cảnh này, Việt Nam đã xác định rõ rằng không có con đường nào khác ngoài lựa chọn thúc đẩy tăng trưởng xanh. Điều này cũng đã được nhấn mạnh trong những văn kiện quan trọng nhất của đất nước và đang được hiện thực hoá khi chính phủ chính thức giao cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng Chiến lược phát triển xanh quốc gia. Giải pháp n o cho định hƣớng tăng trƣởng xanh tại Việt Nam trong cách mạng công nghiệp 4.0? Trước hết, về nhận thức, hiểu thế nào là một nền “kinh tế xanh” hiện nay ở Việt nam vẫn còn hết sức mới mẻ, đòi hỏi phải có những nghiên cứu và phổ biến rộng rãi kiến thức trong tầng lớp lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách, các doanh nghiệp và người dân. Nếu TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 208 không nhận thức đầy đủ, tính đồng thuận trong xã hội sẽ không đạt được, do vậy sẽ khó thực hiện. Dưới tác động của cuộc cách mạng này, công tác điều hành của Chính phủ của Việt Nam cũng sẽ có được sức mạnh công nghệ mới để tăng quyền kiểm soát, cải tiến hệ thống quản lý xã hội. Song cũng như các chính phủ khác trên thế giới, Chính phủ Việt Nam cũng sẽ ngày càng phải đối mặt với áp lực phải thay đổi cách tiếp cận hiện tại của mình để hoạch định và thực hiện chính sách, trong đó quan trọng nhất là phải nâng cao vai trò của người dân trong quá trình này. Điều này sẽ càng có ý nghĩa hơn khi Việt Nam đang tiến vào giai đoan phát triển mới rất quan trọng đòi hỏi đổi mới mạnh mẽ về tư duy, quyết tâm cao của Chính phủ nhằm công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tập trung tuyên truyền, giáo dục định hướng thay đổi nhận thức trước đây của xã hội từ nền “Kinh tế nâu” sang nền “Kinh tế xanh” để tạo ra một sự đồng thuận cao trong xã hội từ lãnh đạo đến người dân và doanh nghiệp, từ đó thay đổi quan niệm và nhận thức về một “Nền kinh tế xanh”. Trong hệ thống giáo dục chuyên nghiệp, đổi mới giáo trình, bài giảng theo hướng tiếp cận phát triển “Nền kinh tế xanh”. Nâng cấp nội dung “Kinh tế môi trường” và “Kinh tế tài nguyên thiên nhiên” truyền thống theo hướng giảng dạy “Kinh tế xanh” Thứ hai, về cách thức tiến hành, so với nền kinh tế truyền thống-“Nền kinh tế nâu”, xây dựng mô hình mới-“Nền kinh tế xanh”, thay đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế có sự khác biệt như thế nào và bắt đầu từ đâu trong bối cảnh phát triển kinh tế Việt nam hiện nay. Thứ ba, nền kinh tế xanh gắn với sử dụng năng lượng tái tạo, cac bon thấp, tăng trưởng xanh, đầu tư khôi phục hệ sinh thái, giải quyết sinh kế gắn với phục hồi môi trường. Thực tế công nghệ sản xuất ởViệt nam hiện nay so với thế giới phần lớn là công nghệ cũ, tiêu hao năng lượng lớn, việc thay đổi công nghệ mới phù hợp với nền kinh tế xanh là thách thức không nhỏ nếu không có trợ giúp của các nước cócông nghệ cao trên thế giới. Nhiều vùng nông thôn và khu vực miền núi, sinh kế người dân còn gặp nhiều khó khăn. Đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ trong nghiên cứu, hợp tác nghiên cứu các lĩnh vực ngành nghề trong nội hàm của “Nền kinh tế xanh” như sử dụng năng lượng tái tạo, công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu hao ít năng lượng, công nghệ giảm thiểu phát thải khí nhà kính; hạn chế tối đa gây ô nhiễm môi trường; Phục hồi hệ sinh thái tự nhiên. Thứ tư, về huy động nguồn vốn cho thực hiện mục tiêu “Xây dựng nền kinh xanh”, mặc dù Việt nam đã thoát khỏi ngưỡng của nước nghèo nhưng tích luỹ quốc gia so với các nước đã phát triển còn quá thấp,điều này ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình triển khai hướng tới “Nền kinh tế xanh”. Đổi mới quy hoạch sử dụng đất cho phát triển đô thị, phát triển giao thông, khu công nghiệp, khu chế xuất, các công trình phúc lợi xã hội theo hướng dành quỹ đất đủ cho phát triển cây xanh, hồ nước và các công trình hạ tầng kỹ thuật môi trường theo quy định tiêu chuẩn quốc tế. Cải cách lại hệ thống thuế tài nguyên và xem xét lại thuế môi trường hướng tới phát triển nền kinh tếxanh được điều chỉnh thông qua công cụ tài chính và thuế khóa nhằm khuyến khích tiết kiệm và sử dụng hiệu quả tài nguyên, nhất là tài nguyên quý hiếm, bảo vệ môi trường. Rà soát, xem xét lại cơ chế chính sách đã có liên quan đến dịch vụ hệ sinh thái và đầu tư cho phát triển rừng thời gian vừa qua, gắn phát triển rừng với xóa đói giảm nghèo trên cơ sở phát huy hiệu quả thể chế “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, những ưu thế của công cụ kinh tế liên quan đến chi trả dịch vụ môi trường rừng, bổ sung và hoàn thiện công cụ này triển khai trong cả nước. Dựa vào tiêu chí quốc tế như đã dự tính của UNEP, đầu tư công toàn cấu 2% GDP cho phát triển kinh tế xanh, tổng kết thời gian vừa qua mức độ đầu tư cho môi trường ở Việt nam còn thiếu hụt bao nhiêu để tiếp tục bổ sung và hoàn thiện phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Tích cực hợp tác quốc tế trong nỗ lực xây dựng “Nền kinh tế xanh” ở Việt nam, huy động các nguồn lực hỗ trợ của quốc tế, nhất là nguồn vốn đầu tư 2% GDP toàn cầu. Thứ năm, Cơ chế chính sách hướng tới thực hiện “Nền kinh tế xanh” ở Việt Nam hiện nay gần như chưa có, trong khi trên thế giới cũng mới đề xuất hướng tiếp cận. Việc rà soát lại cơ chế chính sách liên quan và sửa đổi bổ sung cho phù hợp với mô hình phát triển mới theo TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 209 hướng cơ cấu lại ngành kinh tế và hướng tới nền “kinh tế xanh” là thách thức không nhỏ. Về cơ chế chính sách, trên cơ sở cương lĩnh định hướng Chiến lược phát triển kinh tế-xã Việt nam giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp. Cơ chế chính sách cần tập trung vào tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới mô hình tăng trưởng, trọng tâm là cơ cấu lại ngành nghề,ưu tiên phát triển các ngành có công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường; Sử dụng tiết kiệm năng lượng và tài nguyên; Không gây ô nhiễm môi trường; Phục hồi tài nguyên và hệ sinh thái Lời kết Tùy vào điều kiện cụ thể trong từng giai đoạn mà Việt nam có thể lựa chọn định hướng tăng trường xanh cho phù hợp. Chính vì lẽ đó trong cuộc CMCN 4.0 lần này với đặt ra nhiều thách thức mới đối với các nước đang phát triển như Việt Nam - Đó là thách thức tụt hậu xa hơn, lao động chi phí thấp mất dần lợi thế, khoảng cách công nghệ và tri thức nới rộng hơn dẫn đến phân hóa xã hội sẽ sâu sắc hơn... thì Chính phủ, các doanh nghiệp, các trung tâm nghiên cứu và cơ sở giáo dục tại Việt Nam cần phải nhận thức được và sẵn sàng thay đổi và có chiến lược phù hợp cho việc phát triển công - nông nghiệp, dịch vụ và kinh tế hay nguồn nhân lực trong thời kỳ Internet vạn vật và cuộc CMCN 4.0. Điều này đòi hỏi Việt Nam cũng cần phải có cách tiếp cận phù hợp với điều kiện tự nhiên, thực trạng kinh tế, trình độ phát triển cùng các các vấn đề xã hội và môi trường. Trong những năm tới, với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tôi cho rằng một số hướng ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng xanh nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế hướng tới nền kinh tế xanh ở Việt Nam trong những năm tới như sau: - Thay đổi nhận thức về tăng trưởng Xanh - Thay đổi mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế - Thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế dựa trên các hệ sinh thái; - Đổi mới công nghệ sản xuất theo hướng các bon thấp và ít chất thải; - Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững; - Phát triển dịch vụ môi trường và ngành công nghiệp tái chế. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 210 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt 1. Chính phủ, Quyết định số 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia về Tăng trưởng xanh Tài liệu tiếng Anh 2. Bill Lydon (2014), Only One – Tenth of Germany‟s High – Tech Stratery, Industry 4.0. 3. Hermann, Pentek, Otto (2015), Desigh Principles for Industrie 4.0 Scenarios. 4. Và một số website THE GREEN GROWTH RANK IN VIETNAM IN THE INDUSTRIAL NETWORK 4.0 SUMMARY Green growth is a necessary growth in times of economic crisis, ecological crisis across the world, as an optimum way that economists, the environment think to stop the challenges. of climate change is increasingly affecting people's lives. Green growth has been chosen by many countries as a new development model to tackle complex ongoing problems: the world's resources are dwindling, biodiversity depleted, Environmental pollution continues to increase, climate change is increasingly clear. In Vietnam, the Ministry of Planning and Investment (MPI) has announced the "National Strategy for Green Growth for 2011-2020 and Vision to 2050". However, in order to realize and be effective, there must be synchronous solutions. The industrial revolution 4.0 (CMCN 4.0) is considered to bring great opportunities for our country, when first joined a "playground" without borders, no gap, after three times missed rhythm CMCN mechanical, electrification and automation before. If we do not light the golden opportunity, forecasting the risks and challenges that we face will be very fierce. The article is based on the available advantages of Vietnam, combined with lessons learned. Many other countries around the world are in the process of implementing green growth and the opportunities and challenges that the 4.0 CMC has set out to propose solutions that are hopeful of contributing to the cause. Orientation of green growth in our country today. Key words: green growth, green growth model, green growth direction, growth, industrial networks 4.0.
File đính kèm:
- dinh_huong_tang_truong_xanh_o_viet_nam_trong_cach_mang_cong.pdf