Điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế

Chính sách thuế tiêu dùng được hiểu là hệ thống những quan điểm, đường lối, phương châm

điều tiết phần thu nhập dành cho tiêu dùng của các tổ chức, cá nhân trong xã hội thông qua thuế

tiêu dùng. Biểu hiện cụ thể của chính sách thuế tiêu dùng là các quy định tại các sắc thuế thuộc loại

thuế tiêu dùng trong hệ thống thuế các quốc gia.

Các sắc thuế tiêu dùng tiêu biểu hiện nay là thuế giá trị gia tăng (GTGT - điều tiết đối với

hầu hết các hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng), thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB - chỉ điều tiết đối với một

số hàng hóa, dịch vụ đặc biệt trong danh mục quy định như thuốc lá, rượu, bia, giải trí đặc biệt.),

thuế bảo vệ môi trường (BVMT - điều tiết đối với các hàng hóa mà trong quá trình nhập khẩu, sản

xuất, kinh doanh, lưu trữ và tiêu dùng có ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái) và thuế xuất

khẩu, nhập khẩu (XK NK - áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu).

Chính sách thuế tiêu dùng ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2018 được thể hiện qua các sắc thuế

cụ thể sau:

- Chính sách thuế XK NK: thực hiện theo Luật thuế XK NK số 45/2005/QH11 ngày 14/6/2005

(giai đoạn 2011- 2016) và Luật thuế XK NK số 107/2016/QH13 ngày 06/4/2016 (từ 2016 đến nay).

- Chính sách thuế GTGT: thực hiện ở Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 ngày 03/6/2008 có

hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Sau đó, Luật này đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo

các Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014; Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/04/2016.

- Chính sách thuế TTĐB: thực hiện ở Luật thuế TTĐB số 27/2008/QH12 ngày 14/11/2008.

Sau đó, Luật này đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo các Luật số 70/2014/QH13 ngày

26/11/2014; Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014; Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/04/2016.

- Chính sách thuế BVMT: thực hiện ở Luật thuế BVMT số 57/2011/QH12 ngày 15/11/2010,

có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012.

Điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế trang 1

Trang 1

Điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế trang 2

Trang 2

Điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế trang 3

Trang 3

Điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế trang 4

Trang 4

Điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế trang 5

Trang 5

Điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế trang 6

Trang 6

Điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế trang 7

Trang 7

Điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế trang 8

Trang 8

Điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế trang 9

Trang 9

Điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang baonam 17400
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế

Điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA58
ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ TIÊU DÙNG CỦA VIỆT NAM TRONG
BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA NỀN KINH TẾ
Nguyễn Đình Chiến*
TÓM TẮT: Thuế tiêu dùng là loại thuế chịu ảnh hưởng lớn từ hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh toàn cầu 
hóa nền kinh tế, chính sách thuế tiêu dùng cần được điều chỉnh để chủ động nắm bắt cơ hội cũng như 
đối mặt với những thách thức và có những ứng xử phù hợp để vừa đảm bảo thu ngân sách, vừa quản lý 
và điều tiết các hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng trong xã hội. Bài viết tập trung vào đánh giá 
chính sách thuế tiêu dùng hiện hành của Việt Nam và đề xuất các điều chỉnh để chính sách thuế này phát 
huy vai trò của mình trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế tại Việt Nam.
Từ khóa: Chính sách thuế, Thuế tiêu dùng, Thu ngân sách, Thuế giá trị gia tăng, Thuế xuất khẩu nhập khẩu, 
Thuế tiêu thụ đặc biệt
ABTRACT: Consumption tax is a tax largely influenced by international integration. In the context 
of globalization of the economy, the consumption tax policy should be adjusted to proactively seize 
opportunities as well as face challenges and take appropriate actions to both ensure budget revenue, 
manage and regulate the production, business and consumption activities in the society. The paper 
focuses on assessing Vietnam‘s current consumption tax policy and suggesting adjustments so that this 
tax policy promote its role in the context of economic globalization in Vietnam.
Key words: Tax policy, Consumption tax, Budget revenue, Value added tax, Import and export tax, Excise 
tax
1. KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH THUẾ TIÊU DÙNG Ở VIỆT NAM
Chính sách thuế tiêu dùng được hiểu là hệ thống những quan điểm, đường lối, phương châm 
điều tiết phần thu nhập dành cho tiêu dùng của các tổ chức, cá nhân trong xã hội thông qua thuế 
tiêu dùng. Biểu hiện cụ thể của chính sách thuế tiêu dùng là các quy định tại các sắc thuế thuộc loại 
thuế tiêu dùng trong hệ thống thuế các quốc gia.
Các sắc thuế tiêu dùng tiêu biểu hiện nay là thuế giá trị gia tăng (GTGT - điều tiết đối với 
hầu hết các hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng), thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB - chỉ điều tiết đối với một 
số hàng hóa, dịch vụ đặc biệt trong danh mục quy định như thuốc lá, rượu, bia, giải trí đặc biệt...), 
thuế bảo vệ môi trường (BVMT - điều tiết đối với các hàng hóa mà trong quá trình nhập khẩu, sản 
xuất, kinh doanh, lưu trữ và tiêu dùng có ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh thái) và thuế xuất 
khẩu, nhập khẩu (XK NK - áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu).
* Khoa Thuế và Hải quan, Học viện Tài chính, Đức Thắng, Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam. Tác giả nhận phản hồi: Email: 
nguyendinhchien@hvtc.edu.vn - Điện thoại: 0913579977 
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 59
Chính sách thuế tiêu dùng ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2018 được thể hiện qua các sắc thuế 
cụ thể sau:
- Chính sách thuế XK NK: thực hiện theo Luật thuế XK NK số 45/2005/QH11 ngày 14/6/2005 
(giai đoạn 2011- 2016) và Luật thuế XK NK số 107/2016/QH13 ngày 06/4/2016 (từ 2016 đến nay). 
- Chính sách thuế GTGT: thực hiện ở Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 ngày 03/6/2008 có 
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Sau đó, Luật này đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo 
các Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014; Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/04/2016.
- Chính sách thuế TTĐB: thực hiện ở Luật thuế TTĐB số 27/2008/QH12 ngày 14/11/2008. 
Sau đó, Luật này đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo các Luật số 70/2014/QH13 ngày 
26/11/2014; Luật số 71/2014/QH13 ngày 26/11/2014; Luật số 106/2016/QH13 ngày 06/04/2016.
- Chính sách thuế BVMT: thực hiện ở Luật thuế BVMT số 57/2011/QH12 ngày 15/11/2010, 
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012.
Những kết quả đạt được của chính sách thuế tiêu dùng Việt Nam giai đoạn 2011 - 2018
Chính sách thuế tiêu dùng thực thi ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2018 về cơ bản đã đạt được 
các mục tiêu, yêu cầu đặt ra. Thể hiện cụ thể qua các nội dung sau:
Thứ nhất, Chính sách thuế tiêu dùng đã góp phần huy động nguồn thu lớn, ổn định cho ngân 
sách nhà nước
Biểu đồ 1: Kết quả thu thuế tiêu dùng trong tổng thu từ thuế và tổng thu ngân sách nhà nước 
giai đoạn 2011 - 2018
[Nguồn: Tổng cục Thống kê, Tông cục thuế và tự tính toán]
Với đặc điểm là điều tiết vào các hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu 
dùng, thuế tiêu dùng là loại thuế có phạm vi điều tiết rất rộng nên loại thuế này có khả năng mang 
lại nguồn thu lớn, ổn định cho ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn 2011 - 2018, chính sách thuế 
tiêu dùng của Việt Nam đã phát huy tốt vai trò huy động nguồn thu, tổng số thu của 4 sắc thuế 
thuộc loại thuế tiêu dùng của Việt Nam luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng thu về thuế (chiếm từ 
trên 46% đến gần 60%) cũng như trong tổng thu của ngân sách nhà nước (chiếm từ trên 40% đến 
gần 48%).
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU  ... ệ thống đảm bảo hài hòa với các nước liên quan để thực 
* Dự thảo Tờ trình của Bộ Tài chính kèm công văn số 10958/BTC-CST ngày 17/8/2017 Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số 
điều của Luật thuế GTGT, Luật thuế TTĐB, Luật thuế thu nhập DN, Luật thuế thu nhập cá nhân và Luật thuế tài nguyên
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 67
hiện thống nhất, tránh những sai sót, nhầm lẫn hoặc các vướng mắc trong quá trình áp dụng, vừa 
gây khó khăn trong quản lý, vừa không đảm bảo yêu cầu công bằng.
- Đối với thuế GTGT, cần quy định rõ ràng, đầy đủ hơn các trường hợp không chịu thuế 
GTGT, trong đó, xác định rõ như thế nào là hàng hóa nông sản, lâm sản, thủy sản đánh bắt, nuôi 
trồng chưa qua chế biến hoặc mới qua sơ chế thông thường, cách phân biệt với các sản phẩm này 
đã qua chế biến. Đồng thời, các quy định về đối tượng không chịu thuế cần được quy định rõ ràng 
hơn nhất là các trường hợp dựa trên đối tượng kinh doanh, mục đích sử dụng để xác định chịu thuế 
hay không chịu thuế.
Bên cạnh đó, cần xem xét, điều chỉnh về phương pháp tính thuế GTGT: phương pháp khấu 
trừ thuế là phương pháp chính thống của chính sách thuế GTGT, thể hiện đúng việc điều tiết vào 
phần giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ và tính liên hoàn của thuế GTGT qua các giai đoạn 
luận chuyển. Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT theo quy định hiện hành của Việt Nam rõ 
ràng không phải là một nội dung của thuế GTGT, bởi vì chủ yếu thuế được tính trên cơ sở doanh 
thu nhân với tỷ lệ thuế GTGT ấn định (trừ hoạt động kinh doanh vàng bạc, đá quý). Do vậy, trong 
tương lai, cần xem xét chỉ quy định một phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp khấu trừ 
thuế, các trường hợp hiện tại chưa thể áp dụng phương pháp khấu trừ thuế sẽ được tiếp tục hoàn 
thiện về sổ sách kế toán, hóa đơn chứng từ để áp dụng phương pháp này. Các quy định về hóa đơn 
điện tử, hình thành cơ sở dữ liệu về khai thuế, tính thuế của người nộp thuế hiện hành cũng đang 
là một trong những điều kiện đang được triển khai để thực hiện được nội dung nêu trên.
Ngoài ra, cần sửa đổi các quy định về hoàn thuế GTGT cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, 
doanh nghiệp xuất khẩu và các doanh nghiệp có thuế suất thuế GTGT đầu ra nhỏ hơn thuế suất 
thuế GTGT đầu vào. Bởi vì, theo quy định hiện hành, các DN khởi nghiệp đã đầu tư một lượng 
vốn ban đầu rất lớn nhưng đang trong quá trình đầu tư, chưa phát sinh doanh thu, chưa phát sinh 
thuế GTGT đầu ra hoặc đã phát sinh nhưng còn rất thấp họ vẫn không được hoàn thuế, gây khó 
khăn trong thời gian đầu tư ban đầu. Do đó, cần bổ sung quy định các doanh nghiệp mới thành lập, 
trong giai đoạn đầu tư có số thuế GTGT chưa được khấu trừ hết ở một mức nào đó sẽ được hoàn 
số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết. Tương tự, một số doanh nghiệp sản xuất các loại hàng hóa 
đang áp dụng thuế suất 5%, có thuế GTGT đầu ra thấp, nhưng khi doanh nghiệp mua sắm nguyên, 
nhiên vật liệu, hoặc nhập khẩu thiết bị để nâng cấp, bổ sung, thay thế thiết bị cũ, lạc hậu hoặc hết 
giá trị sử dụng... sẽ phát sinh thuế GTGT đầu vào với thuế suất 10% làm cho số thuế đầu vào lớn, 
không thể khấu trừ hết trong nhiều kỳ cũng cần được xem xét hoàn thuế để giải quyết khó khăn 
cho doanh nghiệp này.
- Đối với thuế TTĐB, cần điều chỉnh quy định về đối tượng chịu thuế TTĐB là thuốc lá điếu, 
xì gà và các chế phẩm từ cây thuốc lá dùng để nhai, hút, hít, ngửi ngậm. Với cách quy định loại 
hàng hóa chịu thuế này, rõ ràng chúng đang được xác định vừa dựa trên mặt hàng, vừa dựa trên 
mục đích sử dụng và dựa cả vào cách thức sử dụng, đồng thời các văn bản hướng dẫn kèm theo 
không thống nhất. Bên cạnh đó, các quy định về khấu trừ thuế TTĐB đối với cơ sở sản xuất, cơ 
sở nhập khẩu hàng hóa về tiêu thụ cũng cần rõ ràng hơn khi phát sinh số thuế tính trên hàng hóa 
bán thấp hơn thuế đầu vào khấu trừ. Ngoài ra, cần nghiên cứu đơn giản hóa biểu thuế TTĐB hiện 
hành. Tuy sắc thuế này nhằm mục tiêu chủ yếu là điều tiết hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu 
dùng các loại hàng hóa, dịch vụ đặc biệt nên để đảm bảo yêu cầu điều tiết đối với từng loại hàng 
hóa, dịch vụ cụ thể, mức điều tiết cần chi tiết theo từng loại hàng hóa. Nhưng biểu thuế TTĐB hiện 
hành là quá phức tạp, chi tiết, nhất là đối với mặt hàng rượu, ô-tô, gây khó khăn trong tuân thủ và 
thực thi. Trong thời gian tới, cần nghiên cứu lại các mức thuế suất của các hàng hóa này theo hướng 
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA68
đơn giản hóa, giảm bớt số lượng thuế suất, giảm bớt sự chi tiết quá mức đối với từng chủng loại 
sản phẩm để đảm bảo tính rõ ràng, khả thi của sắc thuế này.
- Đối với thuế BVMT, cần quy định chi tiết, cụ thể hơn về túi ni-lông chịu thuế. Luật thuế 
BVMT hiện nay chỉ tính thuế đối với túi ni-lông làm từ màng nhựa đơn HDPE, LDPE hoặc 
LLDPE, trừ bao bì đóng gói sẵn hàng hóa và túi ni lông đáp ứng tiêu chí thân thiện với môi trường 
theo quy định. Trong khi đó, túi ni-lông trên thị trường hiện hành được làm từ rất nhiều loại nhựa 
khác nhau, không chỉ ba loại quy định nêu trên, do đó, cần phải có các quy định rõ ràng hơn về 
các loại túi ni-lông có thành phần hạt nhựa nguyên liệu khác nhau, các căn cứ xác định là gì, trong 
trường hợp không có các căn cứ thì cách thức xác định như thế nào, trách nhiệm của NNT trong 
kê khai thuế như thế nào 
Tương tự, đối với các loại thuốc diệt cỏ, thuốc trừ mối, thuốc bảo quản lâm sản, thuốc khử 
trùng kho thuộc loại hạn chế sử dụng chịu thuế BVMT cũng cần bổ sung thêm các quy định cụ thể 
hơn, bao gồm cả phương pháp xác định, cơ quan chịu trách nhiệm kiểm định, trách nhiệm quản lý 
nhà nước đối với các sản phẩm không rõ nguồn gốc, không có thành phần để giúp cơ quan thuế 
xác định được đúng đối tượng chịu thuế, đồng thời quản lý, kiểm soát được việc nhập khẩu, sản 
xuất và sử dụng các sản phẩm này trên thị trường Việt Nam.
Ngoài ra, cần xem xét, điều chỉnh thời điểm tính thuế đối với xăng dầu nhập khẩu: theo quy 
định hiện hành, xăng dầu nhập khẩu về để bán thì kê khai nộp thuế BVMT với cơ quan thuế, còn 
xăng dầu nhập khẩu để phục vụ sản xuất, tiêu dùng thì kê khai, nộp thuế với cơ quan hải quan ngay 
khi nhập khẩu. Quy định này có thể dẫn đến thất thoát tiền thuế đối với phần xăng dầu do chính 
các doanh nghiệp xăng dầu đầu mối tiêu thụ và có thể số lượng xăng dầu kê khai xuất bán ít hơn 
số lượng xăng dầu thực tế nhập khẩu. Vì vậy, nên điều chỉnh quy định về việc thu thuế BVMT, 
giao cho cơ quan Hải quan thu các loại thuế phát sinh tại cửa khẩu nhập, phù hợp với quy định của 
Luật quản lý thuế.
Thứ ba, điều chỉnh mức độ điều tiết của các sắc thuế tiêu dùng để vừa đảm bảo nguồn thu 
NSNN, vừa thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển 
- Xem xét, điều chỉnh thuế suất thuế GTGT: Trong bối cảnh hội nhập, một số nguồn thu suy 
giảm và không bền vững thì việc điều chỉnh thuế suất thuế GTGT với mục tiêu tiếp tục tăng tỷ 
trọng số thu của thuế GTGT trong trung hạn và dài hạn là cần thiết.
Trước mắt, vẫn giữ mức thuế suất 5% bên cạnh thuế suất 10% và thuế suất 0%; tuy nhiên, cần 
thu hẹp dần diện chịu thuế 5% để tiến tới áp dụng một mức thuế suất thuế GTGT ngoài thuế suất 
0%. Khi đó, các mặt hàng có nhiều công dụng hay có thể sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau 
cần đưa về thuế suất 10% để hạn chế gian lận, đồng thời thực hiện được xu hướng thu hẹp thuế suất 
5% như lưới, dây giềng và sợi để đan lưới đánh cá; thiết bị, dụng cụ chuyên dùng cho giảng dạy, 
y tế, nghiên cứu, thí nghiệm khoa học... Bên cạnh đó, nhóm các hàng hóa như hoạt động văn hoá, 
triển lãm, thể dục, thể thao, biểu diễn nghệ thuật, sản xuất phim, nhập khẩu, phát hành và chiếu 
phim, trình diễn thời trang, thi người mẫu, bóng đá, chiếu bóng, cung cấp nước sạch... hiện đang 
áp dụng thuế suất 5%. Tuy nhiên, hiện nay, việc cung cấp các loại hàng hóa, dịch vụ này đã được 
xã hội hoá sâu rộng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế nhằm mục đích lợi nhuận, do đó, 
cũng cần thiết phải chuyển sang chịu mức thuế suất 10%.
Trong dài hạn, cần xem xét điều chỉnh thuế suất thuế GTGT theo định hướng chỉ nên giữ lại 
một mức thuế suất ngoài thuế suất 0%. Đây cũng là một mục tiêu đã được đặt ra trong Chiến lược 
cải cách và hiện đại hóa hệ thống thuế Việt Nam đến năm 2010, tuy nhiên đến nay vẫn chưa thực 
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA 69
hiện được, nên cần tiếp tục đưa ra xem xét, hoàn thiện trong thời gian tới. Hiện nay, hầu hết hàng 
hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT đều áp dụng thuế suất 10%, 14 nhóm chịu thuế suất 5% và 25 nhóm 
không chịu thuế. Do vậy, nên chuyển tất cả hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế 5% lên chịu 
thuế suất 10% và bỏ mức thuế suất 5%. Khi điều chỉnh như vậy sẽ có một vấn đề phát sinh, đó là 
các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu đối với sản xuất và tiêu dùng của đại bộ phận dân cư (thực phẩm 
tươi sống, máy móc và thiết bị y tế, nông sản chưa qua chế biến hoặc mới sơ chế ở khâu kinh doanh 
thương mại...) hiện đang áp dụng thuế suất 5% sẽ phải đưa về mức thuế suất phổ thông hiện nay 
là 10%. Điều này có nghĩa là mục tiêu muốn điều tiết thấp đối với bộ phận dân cư có thu nhập để 
giảm bớt tính lũy thoái của thuế GTGT không còn được thực hiện qua con đường quy định thuế 
suất thuế GTGT thấp nữa. Tuy nhiên, vấn đề phát sinh này hoàn toàn có thể được khỏa lấp bằng hệ 
thống thuế suất thuế thu nhập cá nhân lũy tiến, thuế TTĐB đánh vào hàng hóa, dịch vụ cao cấp và 
hệ thống an sinh xã hội. Bên cạnh đó, thuế GTGT nên nhằm vào mục tiêu điều tiết chung phần thu 
nhập dành cho tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ của đại bộ phận dân cư nhằm tạo số thu lớn và ổn định 
cho ngân sách nhà nước là chủ yếu. Mục tiêu tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội và 
hỗ trợ cho người nghèo nên được thực hiện bởi sắc thuế khác hoặc các chính sách tài chính khác. 
- Xem xét, điều chỉnh mức thuế suất thuế TTĐB đối với một số mặt hàng. Trong đó, xem xét 
tăng mức thuế suất thuế TTĐB đối với thuốc lá để làm cho tỷ lệ thuế TTĐB tính trong giá bán lẻ 
thuốc lá (bao gồm cả thuế GTGT) đạt đến mức bình quân của thế giới1*. 
Tương tự, đối với mặt hàng bia, rượu: hiện nay, mức giá bia, rượu của Việt nam vẫn còn ở 
mức quá thấp, bên cạnh yếu tố chất lượng, giá thành thì mức điều tiết thấp của thuế TTĐB cũng là 
một yếu tố dẫn đến hiện tượng này. Khi đó, việc tiếp cận với các hàng hóa này trong xã hội quá dễ 
dàng, dẫn đến nhiều hệ lụy về sức khỏe, nếp sống, xã hội, môi trường... Do đó, cũng cần xem xét 
tăng mức thuế suất thuế TTĐB đối với các loại hàng hóa này.
Bên cạnh đó, đối với xe ô tô dưới 24 chỗ vừa chở người vừa chở hàng cũng cần đưa thuế 
suất thuế TTĐB lên ngang bằng với loại xe chở người cùng chỗ ngồi, cùng dung tích và cùng loại 
nhiên liệu.
- Điều chỉnh mức thuế BVMT đối với mặt hàng xăng: Hiện nay, mặt hàng xăng đang ở mức 
thuế tuyệt đối kịch trần trong khung thuế (4.000 đồng/lít từ ngày 1/1/2019). Có thể nói, mặt hàng 
xăng dầu có tác động trực tiếp đến hoạt động vận tải cũng như một số hoạt động sản xuất, từ đó tác 
động đều hầu hết các lĩnh vực khác của xã hội, từ dệt may, lương thực, thực phẩm... Do đó, việc 
tăng mức thuế BVMT đối với mặt hàng này sẽ có tác động lớn đến toàn bộ nền kinh tế theo chiều 
hướng gia tăng chi phí, giá thành cho hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. 
Chính vì vậy, trong giai đoạn 2020 - 2025, nên giữ mức thuế này và không thực hiện tăng thuế 
BVMT đối với mặt hàng xăng dầu. 
- Đối với mặt hàng túi ni lông: Luật thuế BVMT quy định Biểu khung mức thuế tuyệt đối 
đối với túi ni lông từ 30.000 đồng/kg đến 50.000 đồng/kg, mức thuế hiện hành là 50.000 đồng/kg. 
Mức thu này được cho là thấp và hầu như không được người dân ở các khu chợ quan tâm, họ vẫn 
thường xuyên sử dụng túi ni lông, gây ô nhiễm môi trường, chưa có tác động nhiều tới hạn chế 
việc sản xuất, sử dụng túi ni lông. Do đó, cần nghiên cứu điều chỉnh khung thuế BVMT đối với túi 
ni lông để góp phần đảm bảo mục tiêu giảm dần việc sử dụng túi ni lông khó phân hủy trong tiêu 
dùng và phù hợp với thông lệ quốc tế.
* 
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ KINH DOANH BỀN VỮNG TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA70
- Đối với thuế XKNK: cần bổ sung, nâng cấp cơ sở pháp lý về các biện pháp phòng vệ về 
thuế (thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế tự vệ) nhằm phát huy công cụ hữu hiệu 
này trong trường hợp các ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại hoặc bị đe dọa thiệt hại do các 
hành vi bán phá giá, trợ cấp, phân biệt đối xử của các đối tác thương mại, đảm bảo phù hợp với 
thông lệ quốc tế.
Thứ tư, quá trình điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng cần quan tâm đến sự ổn định 
trong dài hạn
 Mặc dù chính sách thuế luôn cần thay đổi, bám sát với thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội để 
quản lý, điều tiết kịp thời thực tiễn đó. Tuy nhiên, nếu chính sách thuế thường xuyên thay đổi sẽ 
dẫn đến nhiều khó khăn trong quản lý và tuân thủ. Việc điều chỉnh chính sách thuế tiêu dùng nêu 
trên cần được xem xét, nhìn nhận và đánh giá trong một thời gian nhất định để đảm bảo sự ổn định 
này. Trong đó, cần xác định trước những điều chỉnh trong ngắn hạn, những điều chỉnh trong dài 
hạn để xác định lộ trình thực hiện giúp các chủ thể liên quan dự tính được những thay đổi chính 
sách để có kế hoạch thích nghi nhằm nâng cao hiệu quả thực thi và tuân thủ chính sách thuế nói 
chung, chính sách thuế tiêu dùng nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2011): Quyết định số 723/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 về việc phê duyệt Chiến 
lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 - 2020.
2. Nguyễn Đình Chiến (2014): Nâng cao hiệu quả quản lý thuế ở Việt Nam, Đề tài NCKH cấp 
Học viện, Học viện Tài chính 
3. Nguyễn Đình Chiến (2016): Hoàn thiện các quy định về thuế BVMT ở Việt Nam, Tạp chí 
Nghiên cứu Tài chính Kế toán, Tháng 
4. Nguyễn Việt Cường & Đỗ Đức Minh (2007): Giáo trình Lý thuyết thuế, Học viện Tài 
chính, Nhà Xuất bản Tài chính, Hà Nội
5. Nguyễn Thị Thanh Hoài và cộng sự (2016): TPP và điều chỉnh chính sách thuế của Việt 
Nam, Đề tài NCKH cấp Học viện, Học viện Tài chính
6. Nguyễn Thị Thanh Hoài (2017), Mở rộng cơ sở thuế tiêu dùng ở Việt Nam, Tạp chí Tài 
chính, Tháng 7/2017
7. Vương Thị Thu Hiền (2008): Hoàn thiện chính sách thuế ở Việt Nam trong điều kiện gia 
nhập WTO, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính.
8. Lê Thu Huyền (2008): Đổi mới chính sách thuế tiêu dùng ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ kinh 
tế, Học viện Tài chính
9. Nguyễn Xuân Nhạt, (1995): Những giải pháp hoàn thiện chính sách thuế gián thu ở Việt 
Nam, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Tài chính
10. Tổng cục Thuế: Báo cáo Tổng kết công tác thuế năm các năm từ 2011 đến 2017
11. Lê Xuân Trường, (2016): Giáo trình Quản lý thuế, Học viện Tài chính, Nhà Xuất bản Tài 
chính, Hà Nội
12. Lê Xuân Trường & cộng sự (2014): Cấu trúc thu ngân sách bền vững: Những vấn đề lý 
luận và thực tiễn Việt Nam, Đề tài NCKH cấp Bộ, Bộ Tài chính
13. Một số tài liệu đã dẫn trong bài viết.

File đính kèm:

  • pdfdieu_chinh_chinh_sach_thue_tieu_dung_cua_viet_nam_trong_boi.pdf