Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata

Bài viết nhằm tìm hiểu quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata -

Đẹp và Buồn - dựa trên việc tìm hiểu về tác phẩm, nhất là những tiểu thuyết

nổi tiếng của ông, đặt trong mạch nguồn văn hoá, nghệ thuật, tôn giáo .của

đất nước Phù Tang, cũng như tham khảo các yếu tố đời tư và bối cảnh thời

đại mà ông sống. Những nguyên lý mỹ học có ý nghĩa nền tảng cho sự phân

tích ấy.

Yasunari Kawabata (1899- 1972) là cây đại thụ của nền văn học hiện

đại Nhật Bản. Năm 1968 ông được vinh danh trên văn đàn thế giới với giải

Nobel văn học của viện Hàn lâm khoa học Thuỵ Điển. Bốn năm sau sự kiện

đáng nhớ ấy, ngày 16 tháng 4 năm 1972, tại Kamakura, ông đã vĩnh viễn ra

đi, để lại bao tiếc nuối trong lòng người đọc. Sự sống đã khép lại với một

con người mang “định mệnh” cô đơn, nhưng có lẽ những trang văn đẹp của

Kawabata sẽ vẫn còn làm cho hậu thế phải thao thức và ám ảnh khôn

nguôi.

Kawabata được mệnh danh là “ người lữ khách ưu sầu đi tìm cái

đẹp”. Trong bài diễn từ đọc tại lễ trao giải Nobel, ông tự hào nhận mình

“sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản”(1). Những sáng tác của ông lấp lánh một tình

yêu tha thiết với cái đẹp thấm đẫm màu sắc dân tộc, nằm trong nguồn mạch

văn hoá chỉ có ở xứ sở Phù Tang. Con người ấy đã miệt mài trên lộ trình tìm

về cái đẹp của bản sắc quê hương và ra sức gìn giữ nó trước sự xâm thực của

làn sóng văn hoá và lối sống phương Tây. Am hiểu một cách tinh tế và nhiệt

thành ca ngợi vẻ đẹp ấy, Kawabata đã dành trọn cả cuộc đời cầm bút của

mình. Ta hiểu vì sao người Nhật Bản yêu mến gọi ông là- “con người Nhật

Bản nhất”!

Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata trang 1

Trang 1

Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata trang 2

Trang 2

Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata trang 3

Trang 3

Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata trang 4

Trang 4

Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata trang 5

Trang 5

Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata trang 6

Trang 6

Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata trang 7

Trang 7

Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata trang 8

Trang 8

Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata trang 9

Trang 9

Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang baonam 8280
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata

Đẹp và buồn trong quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata
ĐẸP VÀ BUỒN TRONG QUAN NIỆM THẨM MỸ CỦA YASUNARI 
KAWABATA 
 VŨ THỊ THANH HOÀI 
 Tóm tắt 
 Bài viết nhằm tìm hiểu quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata - 
Đẹp và Buồn - dựa trên việc tìm hiểu về tác phẩm, nhất là những tiểu thuyết 
nổi tiếng của ông, đặt trong mạch nguồn văn hoá, nghệ thuật, tôn giáo ...của 
đất nước Phù Tang, cũng như tham khảo các yếu tố đời tư và bối cảnh thời 
đại mà ông sống. Những nguyên lý mỹ học có ý nghĩa nền tảng cho sự phân 
tích ấy. 
 Yasunari Kawabata (1899- 1972) là cây đại thụ của nền văn học hiện 
đại Nhật Bản. Năm 1968 ông được vinh danh trên văn đàn thế giới với giải 
Nobel văn học của viện Hàn lâm khoa học Thuỵ Điển. Bốn năm sau sự kiện 
đáng nhớ ấy, ngày 16 tháng 4 năm 1972, tại Kamakura, ông đã vĩnh viễn ra 
đi, để lại bao tiếc nuối trong lòng người đọc. Sự sống đã khép lại với một 
con người mang “định mệnh” cô đơn, nhưng có lẽ những trang văn đẹp của 
Kawabata sẽ vẫn còn làm cho hậu thế phải thao thức và ám ảnh khôn 
nguôi... 
 Kawabata được mệnh danh là “ người lữ khách ưu sầu đi tìm cái 
đẹp”. Trong bài diễn từ đọc tại lễ trao giải Nobel, ông tự hào nhận mình 
“sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản”(1). Những sáng tác của ông lấp lánh một tình 
yêu tha thiết với cái đẹp thấm đẫm màu sắc dân tộc, nằm trong nguồn mạch 
văn hoá chỉ có ở xứ sở Phù Tang. Con người ấy đã miệt mài trên lộ trình tìm 
về cái đẹp của bản sắc quê hương và ra sức gìn giữ nó trước sự xâm thực của 
làn sóng văn hoá và lối sống phương Tây. Am hiểu một cách tinh tế và nhiệt 
thành ca ngợi vẻ đẹp ấy, Kawabata đã dành trọn cả cuộc đời cầm bút của 
mình. Ta hiểu vì sao người Nhật Bản yêu mến gọi ông là- “con người Nhật 
Bản nhất”! 
 “Đẹp và buồn” là tên cuốn tiểu thuyết cuối cùng mà Kawabata đã 
viết, dường như đó cũng là quan niệm thẩm mỹ và diện mạo văn chương 
ông. Cái đẹp của thiên nhiên và con người Nhật Bản hiện lên đầy nét quyến 
rũ qua ngòi bút Kawabata. Cái đẹp của văn phong, của “ý ở ngoài lời” vốn 
đã thuộc về thi pháp truyền thống nghệ thuật phương Đông càng hiển hiện rõ 
hơn bao giờ hết... Nhưng một nỗi buồn dịu nhẹ mà sâu lắng cứ ẩn hiện, 
giăng mắc trong hầu hết các tác phẩm của Kawabata. Từ “Truyện trong lòng 
bàn tay” đến các tiểu thuyết: “Xứ tuyết”, “Cố đô”, “Ngàn cánh hạc”, “Tiếng 
rền của núi”, “Người đẹp say ngủ” ...chúng ta đều nhận ra âm hưởng “đẹp” 
và “buồn”. Có nét tương đồng nào đó với những trang truyện của Thạch 
Lam. 
 Đặt các sáng tác của Kawabata trong dòng chảy văn hoá, nghệ thuật 
dân tộc Nhật, soi chiếu từ các nguyên lý mỹ học, tham khảo các yếu tố đời 
tư và bối cảnh thời đại ông sống, tìm hiểu qua chính những sáng tác của 
Kawabata, bài viết nhằm tìm hiểu về quan niệm thẩm mỹ của nhà văn: Đẹp 
và buồn. 
 1. Đẹp... 
 Theo quan điểm của mỹ học Mác xít : “Cái đẹp là phạm trù cơ bản 
và phổ quát nhất của mỹ học. Nó dùng để khái quát những giá trị thẩm mỹ 
tích cực của các sự vật, hiện tượng có cấu trúc hình thức hài hoà, biểu hiện 
nội dung xã hội phù hợp với lý tưởng thẩm mỹ tiên tiến. Các sự vật, hiện 
tượng này được con người xã hội cảm thụ qua các giác quan và mang lại 
cho chủ thể khoái cảm vui sướng, thích thú.”(2). Cái đẹp có mặt trong mọi 
lĩnh vực của đời sống nhưng không một tạo phẩm nào do con người làm ra 
mà ở đó, mục tiêu duy nhất là Đẹp đựơc đề cao như nghệ thuật. Sứ mệnh 
của nghệ thuật là tạo ra cái đẹp, thiên chức của nghệ sĩ là hướng con người 
tới Chân- Thiện- Mỹ. Bằng năng lực tinh thần đặc biệt của mình, nghệ sỹ đã 
thâu tóm, chắt lọc cái đẹp trong cuộc đời để phản ánh trong tác phẩm. Mỗi 
sáng tác nghệ thuật chính là sự kết tinh, thăng hoa của tâm hồn, tài năng 
người nghệ sĩ, in đậm dấu ấn cá nhân và cũng là minh chứng thuyết phục 
nhất cho quan niệm thẩm mỹ của họ. 
 Dẫu ở đâu trên trái đất này, con người đều khát khao vươn tới cái 
đẹp, mong muốn cái đẹp đồng hành trong cuộc sống của mình. Cái đẹp trở 
thành nhịp cầu văn hoá nối liền những khoảng cách không gian và thời gian. 
Tuy vậy, mỗi dân tộc thường có những quan niệm thẩm mỹ riêng, thường 
chịu sự quy định của truyền thống văn hoá, tôn giáo, lịch sử, tính cách, tâm 
lý dân tộc ấy...Kawabata- người “sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản”, cũng không 
nằm ngoài sự ảnh hưởng đó. Những áng văn xuôi kiệt tác của Kawabata 
đúng như tiến sĩ Anders Usterling đã khẳng định: “...với tư cách nhà văn, 
ông truyền đạt một sự am hiểu văn hoá, đạo đức- mỹ học bằng một nghệ 
thuật độc nhất vô nhị, qua đó góp phần vào việc xây dựng cây cầu nối tinh 
thần giữa phương Đông với phương Tây”.(3) 
 Theo nhà nghiên cứu Nhật Chiêu, nếu như văn hoá Trung Quốc thiên 
về hành động và thực tiễn, văn hoá Ấn Độ thiên về tư duy và thần bí thì văn 
hoá Nhật Bản lại thiên về tình cảm và cái đẹp. Người Nhật tôn thờ cái đẹp 
và văn chương Nhật thể hiện ở mức độ cao nhất tín ngưỡng ấy. 
TừKojiki (Cổ sự kí) là tác phẩm cổ xưa nhất của người Nhật ra đời vào đầu 
thế kỷ thứ VIII, đếnManyôshu (Vạn Diệp tập) là một tuyển tập thơ đồ sộ 
được truyền tụng hàng mấy trăm năm trư ...  đẹp 
Nhật Bản”, ông đã nguyện suốt đời làm người lữ hành đơn độc trong hành 
trình tìm kiếm, gìn giữ cái đẹp đang dần bị mai một, phai tàn. Không phải 
ngẫu nhiên mà trong bài diễn từ nhận giải Nobel văn học, ông đã mở đầu 
bằng bài thơ: “Bản lai diện mục” của Thiền sư Dogen(1200- 1253): 
 “Hoa thắm mùa xuân; 
 Cu gù tiết hạ; 
 Trăng thu óng ả 
 Tuyết đông, 
 Giá lạnh, tinh khôi” 
 Kawabata đã dành phần lớn bài phát biểu của mình để giới thiệu 
truyền thống thơ ca viết về thiên nhiên Nhật Bản với một lòng tự hào thầm 
kín. Và trong chính những sáng tác của ông, người ta có thể dễ nhận ra niềm 
say mê đặc biệt khi ông ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên tinh khôi, thuần khiết... 
 Thái độ ngợi ca vẻ đẹp Nhật ở Kawabata càng có ý nghĩa hơn khi ta 
hiểu về hoàn cảnh ông đã sống, một thời đại đầy biến động: Nước Nhật thất 
bại trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, trận động đất lịch sử ở Cantô, 
sự chiếm đóng của Mỹ và những người ngoại quốc sinh sống trên xứ sở hoa 
anh đào....Biết bao điều đã làm thay đổi đời sống người Nhật. Biết bao niềm 
tin bị lung lay. Biết bao sự đắn đo trước các luồng tư tưởng mới. Trước cuộc 
xâm lăng của văn hoá Âu- Mỹ, nhà văn ra sức gìn giữ, nâng niu vẻ đẹp cổ 
xưa của dân tộc đang dần bị hoen ố, phai tàn. Chính ông cũng từng tâm sự: 
“Tôi đã tiếp nhận nồng nhiệt văn chương phương Tây hiện đại và tôi cũng 
đã thử bắt chước nó, nhưng chủ yếu tôi là một người phương Đông và suốt 
mười lăm năm qua tôi chưa từng đánh mất phong cách ấy của mình” (7). 
 Đến với “Cố đô”, người đọc được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Kyoto, 
kinh đô của vương quốc xưa, từng là nơi ngự của Thiên hoàng và triều đình, 
sau một ngàn năm vẫn là một chốn linh địa đầy lãng mạn, quê hương của 
nhiều ngành mỹ thuật và thủ công tinh tế. Nói như Anders Usterling, “với 
các đền thờ Thần đạo và chùa chiền Phật giáo, các khu làng nghề và vườn 
thực vật cổ xưa, nơi đây có một chất thơ mà Kawabata biểu đạt một cách 
trìu mến và trang nhã, không cường điệu đa cảm song hiển nhiên đầy quyến 
rũ và đầy cảm xúc” (7). Người đọc ấn tượng về Kyoto khi ông viết: “Đó là 
một thành phố lớn với những cây cối đẹp đến sững sờ. Không sao tả được 
cái tuyệt mỹ nơi khu vườn bao quanh biệt thự hoàng gia bên cạnh chùa 
Xingakuin, cánh rừng thông bên hoàng cung, bao nhiêu vạt vườn mênh 
mang của những ngôi chùa cổ, mà ngay cây cối trên các phố xá cũng rất 
tươi tốt, chính chúng là điều trước nhất đập vào mắt du khách...”(6, tr.246). 
Mặc dù tác phẩm viết về số phận của hai chị em song sinh Chieko và Naeko, 
nhưng “tiểu thuyết của ông là lời nhắc nhở nhẹ nhàng về sự cần thiết phải 
cứu giữ một cái gì đó của vẻ đẹp và đặc tính Nhật Bản xưa trước cái 
mới”(7). Đây cũng là tác phẩm mang tính dân tộc đậm đà hơn cả trong 
những kiệt tác của Kawabata. 
 Cùng với việc ngợi ca cái đẹp tự nhiên, nguyên sơ, cái đẹp trong văn 
hoá truyền thống của dân tộc, nhà văn không quên phác hoạ những chân 
dung đẹp về con người, đặc biệt là những nhân vật nữ. Hầu hết những người 
phụ nữ trong sáng tác của ông đều đẹp, phản chiếu một vẻ đẹp bên trong, mơ 
hồ và khó nắm bắt. Mỗi một nhân vật có những dấu ấn riêng nhưng ở họ đều 
tràn trề nữ tính. Komako thánh thiện và trần tục, tỉnh táo và đam mê, Yôko 
lạnh lùng và cháy bỏng, thơ ngây và thâm trầm (Xứ tuyết). Kiokô nhạy cảm, 
tinh tế và thuỷ chung (Thuỷ nguyệt). Fumiko kín đáo, sâu sắc, Otto buông 
thả, đắm say (Ngàn cánh hạc). Dường như với Kawabata, phụ nữ bao giờ 
cũng là hiện thân cho cái đẹp, cho khát khao vươn tới nơi những người đàn 
ông. Vẻ đẹp đến sững sờ ở dung nhan yêu kiều và tâm hồn thánh thiện của 
họ, thực sự đã “cứu vớt thế giới”! Ngay cả vẻ đẹp của những cô gái điếm 
trong “Người đẹp say ngủ”, những người đẹp như bước ra từ một cõi liêu 
trai, hoặc quyến rũ đến đắm say, hoặc ngây thơ, trong trắng đến thương xót 
đã 
giúp những ông già bất hạnh từ bỏ được nỗi buồn cô chiếc, sự xấu xí và nỗi 
khốn khổ của tuổi già. Những người đẹp loã thể mà vẫn trinh nguyên trong 
chốn lầu xanh mang lại cho họ suối nguồn tươi trẻ, niềm an ủi, sự tha thứ. 
 Khắc hoạ chân dung nhân vật nữ, Kawabata thường chộp lấy những 
khoảnh khắc bừng sáng của vẻ đẹp. Trong tiểu thuyết “Xứ tuyết”, 
Shimamura bất ngờ phát hiện đôi mắt và khuôn mặt phụ nữ phản chiếu trên 
tấm kính cửa sổ toa tàu. Vẻ đẹp “ảo ảnh”, “huyền diệu lạ kỳ” ấy làm anh 
bàng hoàng, sửng sốt, và khoảnh khắc đó của cái đẹp đã in dấu ấn sâu đậm 
trong suốt cuộc đời anh. Yôko là cái bóng mỏng manh, mờ ảo nhưng mỗi lần 
tiếp xúc với cô là mỗi lần Shimamura khám phá thêm một nét đẹp mới. Vì 
vậy Shimamura say đắm Komako nhưng trong anh luôn hiện diện thứ ánh 
sáng diệu kỳ loé lên từ Yôko.Trong “Ngàn cánh hạc”, Kikuji mặc dù đam 
mê Otto, yêu tha thiết Fumiko nhưng hình ảnh Yukikô- “cô gái có cái túi 
nhiễu màu hồng đào in hình những cánh hạc trắng rập rờn” vẫn thường 
xuyên nhói lên trong ý nghĩ của anh. Hình ảnh cô gái như biểu tượng cho cái 
đẹp thanh cao, thánh thiện: “Trước mắt chàng, cô gái nhà Inamura (tức 
Yukikô) trở lên đẹp lạ thường, nàng bỗng nổi bật lên trên những mẩu 
chuyện nhỏ nhen của những người đàn bà đứng tuổi đang vây quanh 
chàng”(6, tr.238). Trong “Đẹp và buồn”, nhân vật Oki xúc động vì cái trẻ 
đẹp của người con gái nhỏ, sững sờ vì nét dung nhan mỹ miều quá sức tưởng 
tượng của nàng.. 
 Kawabata thường đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm của mỗi nhân 
vật, qua đó họ tự bộc lộ vẻ đẹp của tâm hồn, nhân cách. Đó là những hoài 
niệm đẹp của nhân vật về quá khứ, về mối tình đã qua, về những người thân 
yêu không còn nữa, về sự sống và cái chết...Ta không khỏi ngưỡng mộ trước 
Otokô, người con gái bị huỷ hoại cả tuổi thanh xuân vì mối tình ngang trái, 
đã từng tìm đến cái chết vì quá đau buồn, mà vẫn không một lời oán hận, trả 
thù. Mối tình tuyệt vọng, đam mê tha thiết từ năm 16 tuổi, cô vẫn còn ôm ấp 
mãi. Trong “Người đẹp say ngủ”, ông già Eguchi đến chốn lầu xanh, nhưng 
không phải để thoả mãn thú vui nhục dục, cũng không phải để khắc phục nỗi 
sợ hãi tuổi già, mà đó là cơ hội để ông hồi tưởng về những người đàn bà đã 
đi qua cuộc đời mình, để suy nghĩ miên man về nhân thế. Trước những 
người con gái trẻ ngủ say để cho các lão già tiêu khiển một cách đê tiện, 
trong ông trào lên sự xót thương, “một cái gì gần như tình cảm cha con”... 
 Kawabata cũng viết nhiều về tình yêu, bởi tình yêu không chỉ là 
những cảm xúc hạnh phúc hoặc đam mê nhục dục mà tình yêu là sự khám 
phá đến tận cùng cái đẹp. Nhân vật của ông vừa yêu nhau, vừa cảm nhận về 
vẻ đẹp của nhau. Trong “Ngàn cánh hạc”, khi Kikuji bên người mình yêu, 
“mặc dầu cảm thấy sự đụng chạm nồng nàn ấm áp”, “lại có cảm giác về một 
cái gì dìu dặt du dương như là âm nhạc chứ không phải một cái gì nhận biết 
qua xúc giác”. Dường như tình yêu thật sự là trải nghiệm đáng nhớ nhất 
trong cuộc đời mỗi nhân vật và họ luôn thao thức vì nó dẫu nó chỉ còn trong 
ký ức. Những mối tình dang dở, tan vỡ là những mối tình đẹp. Đó là tình yêu 
thơ mộng đầu đời giữa một chàng trai trẻ và cô vũ nữ xinh đẹp (Cô vũ nữ xứ 
Izu). Đó là mối tình chung thuỷ, thiêng liêng đầy kỷ niệm trong trái tim 
người thiếu phụ Kiokô (Thuỷ nguyệt). Đó là mối tình đam mê cuồng nhiệt 
của Keiko với cô giáo của mình. Sau 20 năm, nhân vật Oki vẫn tự thú nhận 
với mình: “ông chưa yêu ai bằng một tấm tình nặng thương đau như yêu 
nàng”. 
 2...và Buồn 
 Theo E.M.D’ Jakonova: “Trong mỹ học truyền thống Nhật Bản, nỗi 
buồn, nỗi u sầu, nỗi buồn cô đơn không tách khỏi khái niệm vẻ đẹp, bởi vì vẻ 
đẹp sẽ không đầy đủ nếu thiếu nỗi buồn”(9). 
 Bi cảm (aware) là một khái niệm văn học và mỹ học khá phổ biến 
trong cảm thức thẩm mỹ của văn chương Nhật Bản. Đó là “một cách lý giải 
sâu sắc, mạnh mẽ đối với cái đẹp mong manh ngắn ngủi của tự nhiên và mọi 
dạng thức của cuộc đời”(10). Những khái niệm như vô thường (mujo), phù 
du (hakanasa) cũng có ý nghĩa như vậy. Phải chăng quan niệm này còn được 
bắt nguồn từ yếu tố địa chất khắc nghiệt của nước Nhật, một quốc gia 
thường xuyên có động đất? Người Nhật có câu: “Thiên tai ập đến lúc mà 
người ta vừa mới quên nghĩ đến nó”. Sự tàn khốc của thiên nhiên thật khủng 
khiếp.Trong nháy mắt, mọi thứ bị huỷ diệt, biến mất như chưa từng xuất 
hiện: con người, nhà cửa, đường phố, vườn tược...chỉ còn là một đống đổ 
nát, hoang tàn. Liệu sự tàn nhẫn, khắc nghiệt của thiên nhiên có ảnh hưởng 
gì đến tính cách của người Nhật, đến quan niệm về cái chết và sự phù du của 
đời người? 
 Ngay cả trong cách cảm nhận của người Nhật về vẻ đẹp của hoa anh 
đào dường như cũng bắt nguồn từ đó: Hoa anh đào đẹp nhất đó là khi chúng 
nở rộ, kết thành từng đám mây hoa. Hoa anh đào còn biết rời bỏ cuộc sống 
của mình trong khoảnh khắc đẹp nhất để đi vào cõi bất tử. Đó là cái đẹp 
tuyệt- đỉnh- trong- sự -phù- du. 
 Thế giới nghệ thuật của Kawabata cũng gắn liền với quan niệm thẩm 
mỹ truyền thống ấy. Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu quả là tinh tế khi ông viết: 
Băng qua bao thế kỷ Tanka và Haiku, niềm bi cảm ấy (aware) lại truyền 
xuống ngòi bút của Y. Kawabata. Mặt khác ta thấy rằng những dấu vết buồn 
đau trong cuộc đời cá nhân nhà văn và thời đại cũng in dấu sâu đậm trong 
tâm hồn ông khiến cái đẹp và nỗi buồn trở thành nỗi ám ảnh mỗi khi ông 
cầm bút. 
 Cuộc đời của nhà văn là một cuộc đời buồn. Từ tuổi ấu thơ, 
Kawabata đã mang trong lòng nỗi buồn đau của một đứa trẻ mồ côi. Lớn 
lên một chút, Kawabata có thêm nỗi buồn từ cảm thức hoài cổ và những suy 
tư trầm mặc về cuộc sống. Thêm vào đó, sự thất bại của Nhật Bản trong 
cuộc chiến tranh thế giới thứ hai khiến nỗi buồn vốn có trong ông thêm trĩu 
nặng. Kể từ khi đó, ông chỉ còn viết về nỗi buồn. Ông từng tâm sự: “Không 
bao giờ tôi trút được ám ảnh rằng mình là người lang thang ưu sầu. Là 
người luôn luôn mơ mộng, tuy rằng chẳng bao giờ chìm đắm hoàn toàn 
trong mơ, mà vẫn luôn luôn thức giữa khi mơ...Từ sau thất bại, tôi chìm vào 
nỗi buồn- một nỗi buồn ngự trị triền miên trong tâm thức người Nhật chúng 
tôi. Từ đó trở đi tôi chỉ viết những khúc bi thương!”(7). 
 Hầu như toàn bộ sự nghiệp văn chương của ông dành trọn cho cái đẹp 
buồn: “Nhật ký tuổi 16”, “Người đẹp say ngủ”, “Ngàn cánh hạc”, “Cố đô”, 
“Xứ tuyết”, “Đẹp và buồn”...tất cả đều tràn ngập một nỗi buồn mong manh, 
hư ảo, ám ảnh tâm thức người đọc. Nỗi buồn lan toả từ chính những mối tình 
bất thành, dang dở, những tâm hồn nhạy cảm không nguôi ý thức về nỗi đau 
của mình. Mới 16 tuổi, cô gái nhỏ Otokô đã vướng vào tình yêu đam mê mà 
ngang trái với Oki, người đã có gia đình, để rồi hai tháng sau khi đẻ non và 
toan tự vẫn, nàng phải vào nhà thương điên. Hai mươi năm sau nàng vẫn còn 
ám ảnh bởi ký ức đau buồn về đứa con sinh non, chết yểu của mình.Oki 
sống cả đời trong dày vò, ân hận vì sự hèn nhát, vì đã phá hoại cuộc đời 
người con gái nhỏ và tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, viết về tình yêu với 
nàng, cũng làm nàng lỡ làng bao cơ hội nhân duyên (Đẹp và buồn). Trong 
“Tiếng rền của núi”, nhân vật Kikuco sống trong cuộc hôn nhân bất hạnh. 
Nàng càng dịu dàng, cam chịu và nhẫn nại bao nhiêu thì chồng nàng càng 
trác táng, thác loạn và liều lĩnh bấy nhiêu. Suychi, chồng nàng, thường 
xuyên chìm đắm trong những cơn say, ve vãn những người đàn bà khác, thờ 
ơ với cô vợ trẻ ngoan hiền. Tuyệt vọng cùng cực, Kikuco đau đớn phá bỏ 
đứa con mới hình thành, nhưng không hề biết chính Suychi đã moi của nhân 
tình để trả tiền cho viện phí cho nàng. Còn ông già Shingô thì 30 năm sau, 
tình yêu say đắm, tôn thờ từ thời trai trẻ với người chị gái của vợ “vẫn còn 
cắn xé trái tim ông như một vết thương cũ”. 
 Nhân vật của Kawabata thường phải đối mặt với nỗi cô đơn. Đó là nỗi 
cô đơn của Oki khi một mình đáp tàu đi Kyotô để gặp lại cố nhân của 20 
năm về trước (Đẹp và buồn). Đó là Komako, cô geisha xinh tươi, bận rộn 
với hội hè, vậy mà lại thổn thức nhói đau: “Sao có lúc em cảm thấy cô đơn 
đến thế?” (Xứ tuyết). Đó là nỗi cô đơn của Kiokô bên người chồng mới 
không biết đến những kỷ niệm buồn thương nơi nàng (Thuỷ nguyệt). Đó là 
nỗi cô đơn của ông già Shingô bên người vợ vô tâm trong gia cảnh tan nát vì 
những đứa con (Tiếng rền của núi). Đặc biệt, cảm thức cô đơn nơi nhân vật 
Eguchi khi nằm bên những người đẹp trẻ trung say ngủ, còn mình thì trằn 
trọc bởi tuổi già đến gần: “Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả 
nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già 
như thể đông lạnh hẳn trong ông”(Người đẹp say ngủ). Hầu như tác phẩm 
nào của Kawabata cũng thấp thoáng những nhân vật cô đơn. 
 Trong sáng tác của Kawabata, niềm bi cảm dấy lên từ những cái chết 
ám ảnh tâm thức người đọc. Trong “Cố đô”, người cha của Chieko đã chết, 
có lẽ vì bất cẩn, trong khi đang hái lá thông, ông triền miên ân hận khi nghĩ 
đến đứa con gái tội nghiệp mà ông đã bỏ rơi. Còn “Đẹp và buồn” thì có đến 
bốn cái chết: hai hài nhi bé bỏng, bà mẹ sầu khổ của Otokô và cái chết bí ẩn 
của con trai Oki. Cái chết vì mặc cảm tội lỗi, vì không có lối thoát của bà 
Otto trong mối tình vô luân với con trai người tình cũ (Ngàn cánh hạc). 
Nhưng cái chết khiến người ta phải ngậm ngùi hơn cả là cái chết của cái đẹp 
đang độ mãn khai- cái chết của những người con gái đẹp. Cô gái tràn đầy 
sức sống nhất trong năm cô gái mà ông già Eguchi biết khi qua đêm ở lầu 
xanh lại là cô gái đã chết trong khi ngủ. Và ông lão già nua vào cái tuổi gần 
đất xa trời, cũng không thể ngờ rằng, vừa mới đây thôi, nàng tràn trề sinh 
lực là thế, mà giờ đã bất động mãi mãi. Ông đã ngủ với một cô gái đẹp đã 
chết (Người đẹp say ngủ). Đoạn kết bi thảm trong “Xứ tuyết” là đoạn mang 
âm hưởng bi kịch của Sechxpia: trong đám cháy dữ dội, tàn khốc, một trong 
hai cô geisha xinh đẹp nhất nơi đây, Yoko- cô gái có vẻ đẹp thanh khiết, u 
uẩn đã ra đi. Từng sửng sốt trước sắc đẹp của nàng, nhân vật Shimamura 
cảm thấy dải Ngân hà trên đầu anh như sụp đổ và “chất nặng lên tâm tư anh 
một nỗi buồn vô tận”. 
 Tuy nhiên, chết, buồn mà vẫn đẹp. Vẻ đẹp ẩn hiện trong tâm hồn con 
người, trong cách lựa chọn giữa Sống và Chết mang đậm tính cách Nhật. Cái 
chết, đối với người Nhật, dường như tượng trưng cho cái đẹp mang tính 
tuyệt đối. Họ nói đến cái chết không phải với sự sợ hãi, mà là nói đến một 
thách thức mỹ lệ. Chạm đến cái chết là chạm đến tận cùng, cái không ai có 
thể vượt qua được. Người Samurai tận trung coi cái chết cho chủ tướng là 
một niềm vinh dự. Từ xưa, người Nhật chưa bao giờ sợ chết vì lý tưởng. 
Cũng như càng ý thức được về sự phù du, ngắn ngủi của cuộc đời thì họ 
càng nâng niu, hân thưởng cuộc sống trong từng khoảnh khắc. Cái chết làm 
cho họ hiểu hơn ý nghĩa của sự sống. Chết- không đáng sợ, mà không tìm 
thấy ý nghĩa của cuộc sống mới là đáng sợ. Họ quan niệm rằng: không có 
nghệ thuật nào hơn được cái chết và chết có nghĩa là sống. Các Thiền sư 
thường chọn cái chết trong sự trở về với thiên nhiên. Các nhà văn Nhật coi 
cái chết như một lời phát biểu cuối cùng: Ryuosuke Akutagawa (1892- 
1927), Dazai Osamu (1909- 1948), Yukio Mishima (1925- 1970). Và ch 

File đính kèm:

  • pdfdep_va_buon_trong_quan_niem_tham_my_cua_yasunari_kawabata.pdf