Đề xuất hướng quy hoạch trường Đại học Sư phạm thể dục thể thao Hà Nội là trường trọng điểm nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giáo dục thể chất
Hệ thống sư phạm TDTT là một bộ phận
trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất có
vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức
năng và nhiệm vụ đào tạo ra những giảng viên,
giáo viên dạy môn giáo dục thể chất (GDTC)
cho các cấp bậc học trong hệ thống giáo dục
của Việt Nam. Nói đó là một hệ thống giáo dục
về sư phạm TDTT vì có đối tượng đào tạo rõ
ràng, có loại hình đào tạo với nhiệm vụ cụ thể,
trong đó có những thành tố liên kết với nhau
theo chiều dọc và chiều ngang trên cơ sở phân
cấp trình độ đào tạo liên thông với nhau và vận
hành theo cơ chế quản lý thống nhất với mối
liên hệ chặt chẽ với hệ thống giáo dục phổ
thông, hệ thống giáo dục nghề nghiệp, giáo dục
đại học trong cả hệ thống giáo dục quốc dân
thống nhất.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đề xuất hướng quy hoạch trường Đại học Sư phạm thể dục thể thao Hà Nội là trường trọng điểm nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên giáo dục thể chất
58 ĐỀ XUẤT HƯỚNG QUY HOẠCH TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TDTT HÀ NỘI LÀ TRƯỜNG TRỌNG ĐIỂM NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN GIÁO DỤC THỂ CHẤT TS. Hướng Xuân Nguyên -P.Bí thư ĐU, Trưởng phòng TCCB Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Hệ thống sư phạm TDTT là một bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ đào tạo ra những giảng viên, giáo viên dạy môn giáo dục thể chất (GDTC) cho các cấp bậc học trong hệ thống giáo dục của Việt Nam. Nói đó là một hệ thống giáo dục về sư phạm TDTT vì có đối tượng đào tạo rõ ràng, có loại hình đào tạo với nhiệm vụ cụ thể, trong đó có những thành tố liên kết với nhau theo chiều dọc và chiều ngang trên cơ sở phân cấp trình độ đào tạo liên thông với nhau và vận hành theo cơ chế quản lý thống nhất với mối liên hệ chặt chẽ với hệ thống giáo dục phổ thông, hệ thống giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học trong cả hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất. Hệ thống sư phạm TDTT mới được hình thành chính thức từ năm 1961, trường đầu tiên có tên gọi là trường Trung cấp TDTT (nay là Trường Đại học sư phạm TDTT Hà Nội), sau đó là Trường Đại học Sư phạm TDTT Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là 2 trường thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo được giao đào tạo giáo viên giáo dục thể chất có quy mô lớn nhất về lĩnh vực này, tuy nhiên so với các ngành khác còn khiêm tốn. Thực tế nhiều năm gần đây, cùng với xu thế phát triển chung của các trường đại học, nhiều trường đã được đào tạo về sư phạm TDTT. Theo thống kê hiện cả nước có trên 20 cơ sở đào tạo giáo viên Giáo dục thể chất, ngoài ra còn có một số lớp đào tạo sư phạm TDTT, được mở ở các tỉnh, thành phố để đáp ứng nhu cầu nguồn giáo viên GDTC. Có thể nói bên cạnh những mặt tích cực, thực tế cũng cho thấy, hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên TDTT đang bộc lộ những hạn chế cơ bản, như việc phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên giáo dục thể chất chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu phát triển giáo viên còn thiếu. Mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên giáo dục thể chất phát triển trong tình trạng thiếu ổn định do nhiều trường yếu và thiếu cả về cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên trong quá trình đào tạo, hoặc đổi tên để mở rộng tuyển sinh đào tạo trình độ đại học các ngành sư phạm và ngoài sư phạm. Chất lượng đào tạo giáo viên không đồng đều giữa các cơ sở, xuất phát từ thực tế, bài viết phân tích một số yếu tố về việc cấp Tóm tắt: Một trong những nội dung trọng tâm được Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định từ năm học 2016-2017 là quy hoạch lại mạng lưới các trường sư phạm. Đây không chỉ là sự định hướng mang tính chiến lược cho nền giáo dục nước nhà phấn đấu hoàn thành sứ mạng của mình, mà còn khẳng định con đường để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đối với hệ thống các trường sư phạm (TDTT), việc quy hoạch ngày càng cho thấy tính cấp thiết. Từ khóa: Hệ thống sư phạm TDTT; giáo dục quốc dân; đào tạo; chất lượng Abstract: One of the key contents identified by the Ministry of Education and Training from 2016-2017 is the redevelopment of the normal university network. This is not only a strategic orientation for the education of the country to strive to accomplish its mission, but also affirms the way to improve the quality of education and training. With regard to the system University of Physical Education and Sports, the planning has increasingly shown the urgency. Keywords: the system University of Physical Education and Sports, national education, training, quality DIỄN ĐÀN - TRAO ĐỔI DIỄN ĐÀN - TRAO ĐỔI 59 thiết quy hoạch hệ thống giáo viên TDTT để nâng cao chất lượng đào tạo. 2. BỐI CẢNH MỚI VÀ YÊU CẦU QUY HOẠCH HỆ THỐNG SPTDTT 2.1. Phát triển kinh tế - xã hội và nguồn nhân lực đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Đề án phát triển Giáo dục thể chất và thể thao trường học giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1076/QĐ-TTg, ngày 17/6/2016 và Quyết định số 2160/QĐ- TTg ngày 11/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Quy hoạch phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” đã đặt ra mục tiêu tổng quát là: Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục thể chất và thể thao trường học nhằm tăng cường sức khỏe, phát triển thể lực toàn diện, trang bị kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản và hình thành thói quen tập luyện thể dục, thể thao thường xuyên cho trẻ em, học sinh, sinh viên; gắn giáo dục thể chất, thể thao trường học với giáo dục ý chí, đạo đức, lối sống, kỹ năng sống; đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí, lành mạnh cho trẻ em, học sinh, sinh viên, đồng thời góp phần phát hiện, đào tạo năng khiếu và tài năng thể thao cho đất nước. Đồng thời xác định mục tiêu cụ thể cho giáo dục thể chất giai đoạn 2016 - 2020 đó là: + Phấn đấu 100% trường mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, ... ược đào tạo đáp ứng những yêu cầu mới của thực tiễn cả về trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, năng lực thực hành, tư duy sáng tạo và năng lực di chuyển thích nghi nhanh với công nghệ mới, ngành nghề mới, đặc biệt coi trọng cả năng lực quản lý và marketing. Chương trình đào tạo trong lĩnh vực giáo dục thể chất trong thời gian tới sẽ có sự thay đổi cơ bản để tiếp cận, tiếp thu và chọn lọc với các chương trình đào tạo tiên tiến trong khu DIỄN ĐÀN - TRAO ĐỔI DIỄN ĐÀN - TRAO ĐỔI 61 vực và trên thế giới. Đặc biệt là chương trình sách giáo khoa phổ thông tới đây, trong đó có xây dựng chương trình môn giáo dục thể chất và thể thao trường học cho toàn quốc. 2.2. Tăng cường đội ngũ giáo viên Giáo dục thể chất cho quá trình đổi mới giáo dục Một trong bảy giải pháp thực hiện chiến lược giáo dục thể chất giai đoạn được xác định đó là: Đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy và học, kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo dục thể chất. Lồng ghép việc thực hiện Đề án này với quá trình triển khai Đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông, trong đó chú trọng những nội dung sau: a) Về mục tiêu, nội dung giáo dục phát triển thể chất và chương trình môn học giáo dục thể chất: - Thực hiện và đổi mới mục tiêu, chương trình giáo dục phát triển thể chất, bảo đảm cân đối, thống nhất, linh hoạt, có tính kế thừa và phát triển giữa các cấp học; cung cấp đầy đủ kiến thức, kỹ năng cho người học; hình thành và duy trì thói quen tập luyện thể dục, thể thao thường xuyên, gắn với giáo dục đạo đức, xây dựng lối sống lành mạnh, rèn luyện ý chí, phẩm chất phù hợp với đặc điểm thể chất, tâm sinh lý, lứa tuổi và điều kiện cụ thể của người học. - Hoàn thiện chương trình môn học giáo dục thể chất trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, bảo đảm hài hòa giữa kiến thức cơ bản và nội dung tự chọn, khuyến khích các môn thể thao truyền thống như võ cổ truyền, trò chơi dân gian, đáp ứng nhu cầu đa dạng và tạo động lực cho học sinh, sinh viên tự rèn luyện thân thể. b) Về phương pháp dạy và học, hình thức tổ chức hoạt động giáo dục thể chất: - Tổ chức giáo dục phát triển thể chất cho trẻ em dưới nhiều hình thức đa dạng, tích hợp nhiều hoạt động, nhằm tạo cho trẻ em sự hứng thú tham gia. - Tổ chức nhiều hoạt động vận động, tập luyện và thi đấu thể dục, thể thao phù hợp trên cơ sở sự hứng thú, phát huy tính tự giác, khả năng tự học, tự rèn luyện của học sinh, sinh viên. - Đưa việc tổ chức tập thể dục buổi sáng và thể dục giữa giờ thành hoạt động bắt buộc trong nội dung giáo dục thể chất, hoạt động thể thao trong các cơ sở giáo dục phổ thông. c) Về công tác kiểm tra, đánh giá nội dung giáo dục phát triển thể chất, chương trình môn học giáo dục thể chất: Thực hiện kiểm tra, đánh giá toàn diện công tác giáo dục thể chất đối với từng cấp học và trình độ đào tạo, trong đó chú trọng đánh giá về kỹ năng, năng lực vận động, thái độ, thói quen tập luyện thể dục, thể thao ở trong và ngoài nhà trường của học sinh, sinh viên. Như vậy, từ thực tế đó đòi hỏi vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên giáo dục thể chất cho theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa. Trong bối cảnh mới của đất nước, việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên phải xuất phát từ yêu cầu thực tiễn cũng như theo dự báo phát triển kinh tế và khoa học công nghệ. Do đó hệ thống đào tạo về sư phạm TDTT cần được đầu tư kịp thời, thích đáng về cơ sở vật chất, trang thiết bị dùng cho đào tạo nghề nghiệp cũng như kinh phí cho đào tạo. 2.3. Yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho phong trào TDTT TDTT Việt Nam đang phát triển đa dạng và phong phú, bám sát yêu cầu, nhu cầu xã hội. Mặt khác, lĩnh vực TDTT còn cần phải đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ đổi mới hội nhập về các loại lao động sư phạm được đào tạo. Những đòi hỏi trên cho thấy hệ thống các trường sư phạm TDTT đóng góp không nhỏ các sản phẩm đào tạo của mình (đội ngũ giảng viên, giáo viên TDTT trong hệ thống giáo dục quốc dân). Vì vậy cần nghiên cứu tổng thể trong việc quy hoạch đào tạo trong hệ thống đơn vị đào tạo sư phạm TDTT là nhiệm vụ cấp bách trong thời gian tới. DIỄN ĐÀN - TRAO ĐỔI DIỄN ĐÀN - TRAO ĐỔI 62 2.4. Mục tiêu quy hoạch hệ thống sư phạm TDTT trong thời gian tới Quy hoạch để phát triển hệ thống sư phạm TDTT trong điều kiện mới của nền giáo dục mở theo định hướng thị trường lao động, đặt ra những mục tiêu rộng hơn so với trước đây. Đó là mục tiêu góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới giáo dục. Đồng thời cung cấp cho ngành TDTT những VĐV, nhân tài thể thao giỏi. Với những mục tiêu trên cần thiết việc quy hoạch hệ thống sư phạm TDTT trung tâm đảm bảo về cơ cấu ngành nghề. Hiện các trường tham gia đào tạo sư phạm TDTT phát triển khá ồ ạt. Nhiều cơ sở đào tạo không đáp ứng những tiêu chí cơ bản của ngành nghề đặc thù, dẫn tới chất lượng hiệu quả đào tạo không cao, bên cạnh đó còn làm ảnh hưởng chung tới sự nhìn nhận của xã hội đối với ngành nghề sư phạm TDTT. Vì vậy, việc hướng tới xây dựng đội ngũ giảng viên, giáo viên dạy sư phạm TDTT trong hệ thống giáo dục quốc dân đều được đào tạo cả về năng lực chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm theo tiêu chuẩn nghề nghiệp quy định là vô cùng cần thiết. 3. ĐỀ XUẤT QUY HOẠCH TRƯỜNG TRỌNG ĐIỂM ĐỂ PHÁT TRIỂN SƯ PHẠM TDTT Trong thời gian tới, việc tập trung hình thành hệ thống đào tạo về sư phạm TDTT trung tâm là đòi hỏi cấp thiết trong quá trình đổi mới nền giáo dục Việt Nam. Định hướng cho sự phát triển hệ thống đào tạo sư phạm TDTT thời gian tới theo chúng tôi đó là: - Đa dạng hóa loại hình đào tạo sư phạm TDTT cả chính quy và không chính quy nhằm phát triển quy mô và chất lượng giảng viên, giáo viên TDTT trong hệ thống SPTDTT. - Phân cấp, xây dựng các cơ sở đào tạo về sư phạm TDTT theo hướng ưu tiên, chuẩn hóa, đồng bộ, hiện đại hóa có thể hội nhập với khu vực và thế giới. - Mở rộng liên kết đào tạo sư phạm TDTT theo hướng cập nhật yêu cầu của nhu cầu thị trường trong nước và với nước ngoài. - Đổi mới mục tiêu và thống nhất chương trình đạo tạo sư phạm TDTT trong hệ thống giáo dục quốc dân. - Quy hoạch lại các cơ sở đào tạo về 2 đầu mối chính để làm “máy cái”- trường trọng tâm, trọng điểm (hay nói cách khác là trường chính) đào tạo giáo viên Giáo dục thể chất đó là: Khu vực miền Trung, miền Bắc do Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội đảm nhiệm; khu vực miền Nam do Trường Đại học Sư phạm TDTT Thành phố Hồ Chí Minh đảm nhiệm. Bởi đây là 2 trường được thành lập sớm nhất và có chức năng chính về đào tạo giáo viên giáo dục thể chất, đến nay đang kiên trì mục tiêu duy nhất đào tạo đơn ngành về lĩnh vực này nên ngoài những điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ hai trường còn có mô hình, chương trình đào tạo được xã hội đánh giá cao, hiện được Bộ Giáo dục và Đào tạo giao chủ trì xây dựng chương trình đào tạo môn giáo dục thể chất trong toàn quốc. Có thể nói đây là điều kiện quan trọng, cơ bản, là nơi được xem là “máy cái” trong các trường sư phạm TDTT của cả nước. 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ TRƯỜNG ĐHSP TDTT HÀ NỘI LÀ TRƯỜNG TRỌNG ĐIỂM TRONG THỜI GIAN TỚI 4.1. Đổi mới tư duy và xây dựng chiến lược đào tạo sư phạm TDTT trong điều kiện mới. Hệ thống đào tạo sư phạm TDTT cần tiếp tục được phát triển theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa, hội nhập quốc tế một cách đồng bộ và có ưu tiên. Do đó tư duy làm giáo dục của các đơn vị trong Nhà trường phải đổi mới theo hướng phục vụ thị trường lao động kịp thời và có thể đón trước sự phát triển của thị trường để mở rộng quy mô và chất lượng đào tạo. Xây dựng kế hoạch chiến lược, kinh phí trong hoạt động khoa học, công nghệ đảm bảo nghiên cứu cơ bản, ứng dụng và triển khai trong từng cơ sở đào tạo sư phạm TDTT. DIỄN ĐÀN - TRAO ĐỔI DIỄN ĐÀN - TRAO ĐỔI 63 Nhất thiết phải điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống các đơn vị trong nhà trường để đảm bảo sự gắn bó liên thông, liên kết thống nhất trong hệ thống theo quy định Điều lệ trường đại học cũng như đảm bảo đầu ra có việc làm cho người học. 4.2. Hoàn chỉnh và bổ sung chính sách và đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị theo hướng đồng bộ, hiện đại Trong cơ chế vận hành mới theo định hướng thị trường đòi hỏi tính tự chủ cao linh hoạt mở rộng giao lưu liên kết. Do đó bên cạnh việc tích cực xây dựng các đề án, dự án để nhà nước đầu tư thì chính các đơn vị chức năng trong Nhà trường cần tham mưu cho Đảng ủy - BGH điều chỉnh cho phù hợp và tạo thông thoáng cho quá trình thực hiện như: Chính sách học phí đối với trường đặc thù, chính sách đầu tư cơ sở vật chất dạy học,... Đồng thời chú trọng xây dựng cơ chế vận hành và quản lý theo chuẩn thống nhất từ BGH đến các đơn vị phòng, khoa, trung tâm, bộ môn dần dần đi đến tự chủ; đẩy mạnh việc huy động các nguồn lực vào xã hội hóa. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng, nhất là trong điều kiện nguồn kinh phí, tài chính đối với Nhà trường trong giai đoạn trước mắt, cũng như lâu dài. 4.3. Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học. Năng lực nghiên cứu khoa học của phụ thuộc vào nhiều yếu tố như đảm bảo tối thiểu về cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc phục vụ công tác thực tập, thực hành, nghiên cứu; kinh phí dành cho nghiên cứu; mối quan hệ và hợp tác giữa Nhà trường và bên ngoài, nhất là với các viện, trung tâm nghiên cứu kỹ thuật và sư phạm; tổ chức bộ máy và cán bộ quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, trong đó năng lực nghiên cứu của đội ngũ các nhà khoa học, các giảng viên giữ vai trò quyết định. Vì lẽ đó, muốn đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học trong Nhà trường phải có cơ chế đặc thù, huy động được nhiệt tình trách nhiệm và lòng say mê vì sự nghiệp giáo dục thể chất và thể thao trường học của toàn thể đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên. Đồng thời có kế hoạch dài hạn và ngắn hạn bồi dưỡng năng lực nghiên cứu khoa học cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhân viên với nhiều phương thức ở trong nước và nước ngoài. 4.4. Tăng cường đội ngũ giảng viên về số lượng, chất lượng theo hướng chuẩn hóa và trẻ hóa Đội ngũ giảng viên trong Trường có vai trò quyết định đến chất lượng đào tạo và sự phát triển chiến lược của quốc gia nói chung, của Nhà trường nói riêng. Bởi vậy cần đồng thời vừa bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn giảng dạy và nghiên cứu khoa học của đội ngũ cán bộ, giảng viên hiện có, vừa phải có kế hoạch đào tạo đội ngũ trẻ kế thừa theo chuẩn nhằm bổ sung và tăng cường số lượng giảng viên, giáo viên cho các trường học, cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục nói chung và ngành TDTT nói riêng. Nguồn đào tạo mới không chỉ ở trong nước mà còn coi trọng đào tạo ở nước ngoài cũng như liên kết đối với những nhà khoa học và giảng viên giỏi ở nước ngoài. Trong phát triển đội ngũ giảng viên tương lai cần hết sức coi trọng sự cân đối, phù hợp về cơ cấu nghề trong hệ thống sư phạm TDTT, nhất là các chuyên ngành nghề mới, công nghệ mới mang lại. 4.5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế Đây là điều kiện hết sức quan trọng được coi là một trong những nước đột phá cơ bản để nâng cao chất lượng, uy tín và vị thế của trường trọng điểm quốc gia. Vì thế, bên cạnh việc tiếp tục thường xuyên giữ mối quan hệ hợp tác quốc tế trong việc đào tạo CB,GV trình độ tiến sĩ, thạc sĩ chuyên ngành TDTT với các trường có mối quan hệ truyền thống, nhiệm vụ cần được đặt ra là đẩy mạnh hơn nữa việc hợp tác với các trường khu vực Châu Âu, Châu Mỹ. Trong thời gian gần đây việc hợp tác quốc tế của Nhà trường không chỉ dừng lại ở một số hoạt động mang tính ngoại giao, mà đã đi vào chiều sâu rất rõ rệt như: Ký kết thỏa thuận hợp DIỄN ĐÀN - TRAO ĐỔI DIỄN ĐÀN - TRAO ĐỔI 64 tác về đào tạo trong lĩnh vực TDTT với Học viện Thể thao Vũ Hán - Trung Quốc; ký kết bản ghi nhớ hợp tác giữa Trường Đại học TDTT Gdansk (Ba Lan); ký kết hợp tác với Trường Cao Đẳng TDTT Quảng Tây (Trung Quốc) về lĩnh vực đẩy mạnh y học vận động; bước đầu thỏa thuận hợp tác với Trường Đại học Kỹ thuật Ngô Phụng - Đài Loan; tiếp tục ký thỏa thuận với Trường Đại học Sư phạm Quảng Tây - Trung Quốc. Ngoài ra tổ chức buổi giao lưu học tập chuyên môn giữa sinh viên Nhà trường với sinh viên Trường Khoa học Thể thao và Dinh dưỡng - Đại học Công nghệ Bang Queensland (QUT) - Australia; cử đội bóng đá nam tham dự Tuần lễ giao lưu thể thao, văn hóa các trường đại học Đông Nam Á và Nam Á tổ chức tại Trường ĐH Bách khoa - Côn Minh (Trung Quốc). Đặc biệt là đàm phán với Trường Cao đẳng GDTC Quốc gia Lào sang trao đổi về nội dung liên kết đào tạo song phương cử sinh viên, học viên sang học tập dài hạn với kết quả đã tiếp nhận 08 lưu học sinh viên Lào sang học ở trình độ cao học và đại học. Đây có thể nói là tiền đề, nền tảng cho việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong thời gian tới. 5. KẾT LUẬN Việc đầu tư và quy hoạch lại mạng lưới các trường sư phạm nói chung, quy hoạch các trường sư phạm TDTT nói riêng, không chỉ là sự định hướng mang tính chiến lược cho nền giáo dục nước nhà phấn đấu hoàn thành sứ mạng của mình mà còn khẳng định con đường để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, bởi hệ thống sư phạm TDTT gắn bó chặt chẽ và liên thông với các phân hệ giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đây là tư tưởng chỉ đạo và định hướng trong phát triển hệ thống trong bối cảnh mới của nước ta đang trong thời kỳ thực hiện CNH, HĐH đất nước. Mặt khác còn phải đáp ứng được yêu cầu của hội nhập quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa nên việc phát triển hệ thống sư phạm TDTT cần theo định hướng chuyên nghiệp, hiện đại hóa và chuẩn hóa quốc gia và quốc tế. Việc quy hoạch các trường sư phạm TDTT, lấy Trường Đại học Sư phạm TDTT Hà Nội làm trường trọng điểm, trọng tâm sẽ giúp cho việc hệ thống các trường sư phạm TDTT tăng cường gắn kết, tạo mọi điều kiện để gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng đào tạo cho đội ngũ giảng viên, giáo viên mà còn là nhân tố quan trọng và là động lực mạnh mẽ cho quá trình nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo của mô hình giáo dục hiện đại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật Giáo dục 2005 2. Quyết định số 1076/QĐ-TTg, ngày 17/6/2016 phê duyệt Đề án phát triển Giáo dục thể chất và thể thao trường học giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025 3. Quyết định số 2160/QĐ-TTg ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt “Quy hoạch phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030” 4. PGS. TS Nguyễn Viết Sự. Giáo dục nghề nghiệp – Những vấn đề và giải pháp. NXB Giáo dục. Hà Nội 2005. 5. Kỷ yếu hội thảo quốc gia “Nghiên cứu khoa học gắn với đào tạo trong hệ thống Sư phạm kỹ thuật”. Viện Chiến lược và Chương trình giáo dục. Hà Nội, 2004. DIỄN ĐÀN - TRAO ĐỔI DIỄN ĐÀN - TRAO ĐỔI
File đính kèm:
- de_xuat_huong_quy_hoach_truong_dai_hoc_su_pham_the_duc_the_t.pdf