Đánh giá hiệu quả hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC)
Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước SCIC là một SWF hoạt động với tư cách là tổ
chức kinh tế đặc biệt của Chính phủ, thực hiện hai chức năng chính: Một là tiếp nhận và đại diện
chủ sở hữu vốn Nhà nước tại các Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
và hai là thực hiện đầu tư và kinh doanh vốn vào các ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế.
Nghiên cứu này so sánh tác động của sở hữu của SCIC nói riêng và sở hữu nhà nước nói chung đến
hiệu quả của doanh nghiệp mục tiêu tại Việt Nam. Nghiên cứu này có hai điểm mới quan trọng:
(1) đánh giá hiệu quả tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp mục tiêu dưới tác động từ sở hữu
của SCIC, trong khi các nghiên cứu trước chỉ xét hiệu quả về mặt tài chính, (2) nghiên cứu này xem
xét tác động của sở hữu một công ty quản lý vốn Nhà nước (SWF) đến hiệu quả của các doanh
nghiệp mục tiêu trong nước, trong khi các nghiên cứu trước phân tích tác động của SWF đến hiệu
quả của các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước. Tác giả sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu
bảng là System Generalized Methods of Moments (Sys GMM) cho mẫu các doanh nghiệp niêm yết
thu thập từ Thomson Reuters trong giai đoạn từ 2008-2017 nhằm xử lý nội sinh và các khuyết tật
như phương sai thay đổi và tự tương quan. Kết quả cho thấy sở hữu của SCIC có tác động tích cực
đến hiệu quả tài chính hơn so với sở hữu nhà nước. Trong khi đó, sở hữu SCIC có ảnh hưởng tiêu
cực hơn đến hiệu quả phi tài chính so với sở hữu nhà nước. Kết quả này hàm ý SCIC đặt mục tiêu
tài chính cao hơn các mục tiêu xã hội (phi tài chính) và đây có thể là lý do giải thích hiệu quả cao
hơn về mặt tài chính của SCIC so với sở hữu nhà nước
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hiệu quả hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC)
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):686-695 Open Access Full Text Article Bài Nghiên cứu Ban Tuyên Giáo Thành Ủy, Tp. Hồ Chí Minh Liên hệ Nguyễn Thanh Đoàn, Ban Tuyên Giáo Thành Ủy, Tp. Hồ Chí Minh Email: ntdoan2017@gmail.com Lịch sử Ngày nhận: 18/7/2019 Ngày chấp nhận: 10/8/2019 Ngày đăng: 27/6/2020 DOI :10.32508/stdjelm.v4i2.618 Bản quyền © ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố mở được phát hành theo các điều khoản của the Creative Commons Attribution 4.0 International license. Đánh giá hiệu quả hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) Nguyễn Thanh Đoàn* Use your smartphone to scan this QR code and download this article TÓM TẮT Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước SCIC là một SWF hoạt động với tư cách là tổ chức kinh tế đặc biệt của Chính phủ, thực hiện hai chức năng chính: Một là tiếp nhận và đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước tại các Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên... và hai là thực hiện đầu tư và kinh doanh vốn vào các ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. Nghiên cứu này so sánh tác động của sở hữu của SCIC nói riêng và sở hữu nhà nước nói chung đến hiệu quả của doanh nghiệp mục tiêu tại Việt Nam. Nghiên cứu này có hai điểm mới quan trọng: (1) đánh giá hiệu quả tài chính và phi tài chính của doanh nghiệpmục tiêu dưới tác động từ sở hữu của SCIC, trong khi các nghiên cứu trước chỉ xét hiệu quả về mặt tài chính, (2) nghiên cứu này xem xét tác động của sở hữu một công ty quản lý vốn Nhà nước (SWF) đến hiệu quả của các doanh nghiệp mục tiêu trong nước, trong khi các nghiên cứu trước phân tích tác động của SWF đến hiệu quả của các doanh nghiệp cả trong và ngoài nước. Tác giả sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng là System Generalized Methods of Moments (Sys GMM) chomẫu các doanh nghiệp niêm yết thu thập từ Thomson Reuters trong giai đoạn từ 2008-2017 nhằm xử lý nội sinh và các khuyết tật như phương sai thay đổi và tự tương quan. Kết quả cho thấy sở hữu của SCIC có tác động tích cực đến hiệu quả tài chính hơn so với sở hữu nhà nước. Trong khi đó, sở hữu SCIC có ảnh hưởng tiêu cực hơn đến hiệu quả phi tài chính so với sở hữu nhà nước. Kết quả này hàm ý SCIC đặt mục tiêu tài chính cao hơn các mục tiêu xã hội (phi tài chính) và đây có thể là lý do giải thích hiệu quả cao hơn về mặt tài chính của SCIC so với sở hữu nhà nước. Từ khoá: Tổng công ty đầu tư vốn nhà nước (SCIC), Quỹ đầu tư quốc gia (SWF), doanh nghiệp vốn nhà nước (SOE) BỐI CẢNH VÀ VẤNĐỀ NGHIÊN CỨU Trên thế giới, các công ty đầu tư vốn nhà nước (SWF) đã thành lập được hơn 5 thập kỷ và những năm gần đây chứng kiến sự tăng vọt về số lượng cũng như quy mô. Với sự lớn mạnh như vậy, đầu tư của các quỹ này vào các doanh nghiệp mục tiêu ngày càng phổ biến, nên nhu cầu nghiên cứu ảnh hưởng của đầu tư của SWF đến doanh nghiệp mục tiêu ngày càng tăng lên. Một số nghiên cứu đã cho thấy các SWF có vai trò rất quan trọng đối với doanh nghiệp mục tiêu: không những bổ sung vốn cần thiết cho quá trình hoạt động và phát triển, mà còn tác động đến cơ cấu quản trị và giá trị doanh nghiệp mục tiêu. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy chưa có kết quả thống nhất về các vai trò này, hàm ý sự phức tạp trong cơ chế hoạt động của các quỹ đầu tư SWF. Các nghiên cứu trước đây về vai trò của quỹ đầu tư SWF xoay quanh thước đo về hiệu quả tài chính, do các tổ chức này quản lý vốn thay mặt các cơ quan nhà nước và thực hiện đầu tư vào các doanh nghiệp mục tiêu. Về mặt hiệu quả tài chính, các SWF không phải lúc nào cũng đầu tư hiệu quả và các loại SWF khác nhau có xu hướng đạt hiệu quả tài chính khác nhau. Vì thế, việc đánh giá vai trò về mặt tài chính của các SWF là cần thiết, nhằm xác định chiến lược đầu tư nào là hiệu quả, hoặc SWF với những đặc điểm nào thường có hiệu quả tài chính tốt hơn. Một vấn đề khác tồn tại lâu nay là mặc dù SWF thay mặt cơ quan nhà nước để đầu tư, chưa có nghiên cứu nào so sánh hiệu quả về mặt tài chính sở hữu của SWF nói riêng và sở hữunhà nước nói chung ở các doanhnghiệpmục tiêu. Tại Việt Nam, SCIC hoạt động theo mô hình SWF, nhờ đó xóa bỏ dần sự can thiệp hành chính của cơ quan quản lý nhà nước vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp mục tiêu, chuyển hình thức quản lý vốn nhà nước sang hình thức đầu tư, kinh doanh vốn và cũng có tác động đến nhận thức và cách hoạt động của doanh nghiệp, đặc biệt trong quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước. Vốn điều lệ của SCIC đã tăng từ 5.000 tỷ đồng năm 2005 và tăng lên 85.082 tỷ đồng năm2018. Mặc dù đạt được một số thành tựu nhất định, thực tiễn hoạt động của SCIC còn nhiều tồn tại. Số liệu chi tiết về kết quả các hoạt động đầu tư của SCIC cũng không được công bố Trích dẫn bài báo này: Đoàn N T. Đánh giá hiệu quả hoạt động của Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC). Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 4(2):686-695. 686 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luậ ... hơn 0,1, cho thấy các biến công cụ được sử dụng là phù hợp. Đầu tiên, với kết quả hồi quy vềmức lương của các công nhân viên, sở hữu nhà nước có hệ số dương, làm tăngmức lương của công nhân viên. Trong khi đó, sở hữu của SCIC có hệ số âm, có tác động tiêu cực đến mức lương của công nhân viên. Điều này hàm ý SCIC có thể quan tâm đến hiệu quả tài chính, và cắt giảm chi phí tiền lương để làm tăng mức lợi nhuận, trong khi đó các cơ quan nhà nước nói chung có thể quan tâm đến gia tăng phúc lợi cho người lao động, nên quan tâm đến việc tăng tiền lương cho họ. Với mức thay đổi số lượng công nhân viên toàn thời gian, sở hữu nhà nước có tác động tích cực -0,851, trong khi đó hệ số của biến sở hữu SCIC là -10,642, cao hơn gấp 10 lần so với hệ số của sở hữu nhà nước. Điều này hàm ý, các đơn vị đại diện cho nhà nước có quan tâm đến hiệu quả. Sau quá trình cổ phần hóa, số lao động dôi dư cần phải giải quyết là rất lớn, do đó áp lực cắt giảm lực lượng lao động này là tất yếu. Tuy nhiên, với đối tượng sở hữu làNhà nước nói chung, sự cắt giảm có đi kèm với quan ngại về phúc lợi của các lao động nhiều hơn đối tượng sở hữu là SCIC, SCIC là đơn vị có nhiệm vụ quản lý nguồn vốn đầu tư củaNhà nước ở các doanh nghiệp khác, do đó, quan tâm của SCIC có thể là hiệu quả về tài chính hơn là hiệu quả xã hội so với sở hữu nhà nước nói chung. Việc mạnh dạn cắt giảm lao động dôi dư, và cắt giảm lương có thể là cơ sở giải thích cho hiệu quả tài chính gia tăng của SCIC so với sở hữu nhà nước nói chung. Với kết quả về thuế (efftax), hệ số của biến State và SCIC đều dương và có ý nghĩa thống kê. Sự khác biệt giữa hai hệ số khá nhỏ, và không đáng kể về mặt kinh tế. Mối tương quan dương giữa hai biến State và SCIC với tỷ lệ thuế nộp chonhà nước hàmý các doanh nghiệp có nhà nước và công ty quản lý vốn SCIC có thể có hiệu quả tài chính tương đối tốt, làm tăng thu nhập trước thuế. Điều này dẫn đến tăng lượng thuế nộp cho Nhà nước. Nghiên cứu này có những đóng góp quan trọng về mặt thực tiễn và lý thuyết. Về mặt lý thuyết, đây là nghiên cứu đầu tiên về tác động của SWF đối với hiệu quả của các doanh nghiệp mục tiêu, tập trung vào các doanh nghiệp trong nước. Các nghiên cứu trước đây tập trung phân tích hiệu quả tài chính của SWF trong việc đầu tư, không phân biệt các doanh nghiệp mục tiêu trong và ngoài nước. Mặc dù trong nước, nhưng nghiên cứu này cho thấy SCIC cũng như các SWF khác, không tập trung nhiều vào hiệu quả xã hội. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu hàm ý SCIC đã được trao quyền tự chủ tốt hơn và giảm được các mệnh lệnh hành chính, giảm các nhiệm vụ liên quan đến mục tiêu xã hội. 691 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):686-695 Bảng 2: Kết quả hồi quy hiệu quả tài chính ROA ROA ROE ROE PTB PTB L,roa 0,503*** 0,558*** (0,033) (0,026) L,roe 0,452*** 0,485*** (0,027) (0,026) L,ptb 0,123 *** 0,128 *** (0,016) (0,003) state 0,023** 0,053*** -0,002 * (0,011) (0,018) (0,001) scic 0,034** 0,060** 0,001 * (0,014) (0,025) (0,001) foreign -0,069** -0,058*** -0,201 *** -0,156 *** -0,032 *** -0,017 *** (0,028) (0,020) (0,049) (0,054) (0,004) (0,002) size -0,297 0,121 1,355 0,932 0,486 *** 0,416 *** (0,462) (0,322) (0,936) (0,782) (0,059) (0,018) lev 2,683 3,584*** 1,288 10,020 *** -4,170 *** -2,748 *** (3,709) (0,896) (6,269) (2,153) (0,330) (0,060) grow 2,541*** 2,024*** 5,281 *** 4,645 *** 0,423 *** 0,461 *** (0,397) (0,365) (0,784) (1,053) (0,034) (0,020) cash_asset 11,529*** 11,621*** 48,665 *** 40,255 *** 0,763 *** 1,425 *** (3,205) (1,482) (5,703) (3,907) (0,284) (0,072) Hằng số 4,013 -2,114 -26,893 -18,663 -8,790 *** -8,275 *** (9,004) (6,772) (18,330) (16,171) (1,146) (0,399) Số QS 3609 3609 3517 3517 2441 2441 AR(1) 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 AR(2) 0,897 0,985 0,884 0,961 0,124 0,194 Hansen 0,452 0,247 0,151 0,165 0,104 0,109 Nguồn: Tác giả tính toán, * thể hiện ý nghĩa thống kê ở 10%, ** ở 5%, *** ở 1% KẾT LUẬN VÀHÀMÝ CHÍNH SÁCH Sự gia tăng về lượng đầu tư của các SWF trên toàn thế giới cho thấy tầm quan trọng của đối tượng này ngày càng gia tăng. Xu hướng các chính phủ trao quyền quản lý vốn cho các SWF đang trở nên rất phổ biến trên thế giới và trong những năm gần đây SWF tăng mạnh về số lượng cũng như quy mô của từng SWF. Các tổ chức này ngày càng đóng vai trò quan trọng được xem là nhà đầu tư năng động và đã tích cực trong việc tái cấp vốn cho các ngân hàng lớn nhất trên thế giới. Nghiên cứu này so sánh tác động của sở hữu của SCIC và sở hữunhà nước nói chung đến hiệu quả của doanh nghiệp mục tiêu tại Việt Nam. Nghiên cứu này mở rộng các nghiên cứu trước thông qua xemxét tác động của công ty quản lý quỹNhà nước (SWF, trong trường hợp này là SCIC tại Việt Nam) đến các doanh nghiệp mục tiêu ở Việt Nam, trong khi các nghiên cứu trước xem xét tác động này đến hiệu quả doanh nghiệpmục tiêu không xem xét đến các quốc gia của các doanh nghiệp mục tiêu. Kết quả cho thấy SCIC có tác động tích cực đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam. 692 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):686-695 Bảng 3: Kết quả hồi quy hiệu quả phi tài chính (hiệu quả xã hội) EFFTAX EFFTAX SALARY SALARY CHANGE CHANGE L,efftax 0,222*** 0,265*** (0,018) (0,004) L,salary 1,083 *** 0,094 *** (0,042) (0,017) L,change -0,262 *** -0,351 *** (0,003) (0,007) state 0,000*** 1,2e+06 ** -0,851 *** 0,000 (450000,000) (0,255) foreign 0,000 0,000 3,1e+06 * -3,2e+06 ** 18,698 *** 1,61 0,000 0,000 (1600000,000) (1400000,000) (1,191) (2,294) size 0,019*** 0,015*** 1,8e+07 * 2,10E+07 161,153 *** 77,980 ** (0,003) (0,002) (10000000,000) (41000000,000) (10,994) (39,421) lev -0,093*** -0,043*** -2,2e+08 *** 2,70E+07 4045,587 *** 3300,410 *** (0,019) (0,003) (57000000,000) (62000000,000) (38,860) (130,017) grow -0,009*** -0,006*** -2,6e+07 *** -1,8e+07 * 1,498 66,411 *** (0,002) (0,001) (6400000,000) (11000000,000) (5,157) (15,269) cash_asset -0,086*** -0,09*** 2,2e+08 *** 5,0e+08 *** 1986,636 *** 2582,615 *** (0,019) (0,004) (48000000,000) (130000000,000) (25,105) (86,831) scic 0,001*** -4,8e+06 *** -10,642 *** (0,000) (7,00E+05) (3,062) _cons -0,197*** -0,124*** -2,90E+09 -3,00E+08 -4,6e+03 *** -2,6e+03 *** (0,057) (0,035) (1,90E+09) (8,20E+08) (209,737) -798,875 Số QS 3021 3021 213 213 633 633 AR(1) 0,000 0,000 0,275 0,234 0,140 0,142 AR(2) 0,357 0,272 0,288 0,613 0,434 0,589 Hansen 0,100 0,105 0,952 0,809 0,366 0,992 Nguồn: Tác giả tính toán, * thể hiện ý nghĩa thống kê ở 10%, ** ở 5%, *** ở 1% So với các nghiên cứu trước với kết quả chủ yếu là tác động đầu tư tiêu cực của các SWF, nghiên cứu này cung cấpmột cái nhìnmới về vai trò của SWF tại quốc gia sở hữu nó. Điều này có thể hàm ý SWF có thể có các vai trò khác nhau, tùy thuộc vào việc SWF đang đầu tư trong nước hay đầu tư nước ngoài. Cụ thể, các SWF đầu tư vào các doanh nghiệp mục tiêu ở quốc gia khác có thể có những mục tiêu chính trị nên hiệu quả đầu tư có thể không được xem trọng. Tuy nhiên, nếu SWF (tại Việt Nam là SCIC) thì mục tiêu có thể thấy là hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, cho nền kinh tế do đó hiệu quả tương đối tốt. Mặc dù vậy, hiệu quả thực sự của SCIC và các SWF chỉ có thể được so sánh khi xem xét cùng đối tượng nhận đầu tư là các doanh nghiệp mục tiêu trong cùng quốc gia sở hữu của SWF. Nghiên cứu này cũng xem xét hiệu quả phi tài chính của SCIC và sở hữu nhà nước, trong khi các nghiên cứu trước chỉ xét về tác động đến hiệu quả tài chính của các SWF. Nghiên cứu cho thấy SCIC có tác động tích cực đến hiệu quả tài chính, trong khi tác động tiêu cực hơn đến hiệu quả phi tài chính so với sở hữu nhà nước nói chung. Kết quả này hàmý SCICđặtmục tiêu tài chính cao hơn các mục tiêu xã hội (phi tài chính) 693 Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(2):686-695 và đây có thể là lý do giải thích hiệu quả cao hơn về mặt tài chính của SCIC so với sở hữu nhà nước. Kết quả này cũng thể hiện vai trò tách bạch của SCIC khỏi Nhà nước, thể hiện khả năng tốt trong vai trò là đơn vị quản lý vốn đầu tư của Nhà nước. Do đó, nghiên cứu này cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho thấy nên tiếp tục thúc đẩy việc giao phó cho Ủy ban quản lý vốn nhà nước (trong đó có SCIC) quản lý vốn đầu tư của nhà nước mà trong đó SCIC cần tập trung theo hướng đầu tư, kinh doanh vốn nhà nước nhiều hơn. Hàm ý này thống nhất với xu hướng hiện tại của việc các chính phủ thành lập ngày càng nhiều các SWF, quy mô SWF cũng ngày càng lớn hơn. Tuy nhiên, cùng với xu hướng này việc giải quyết quyền lợi cho các lao động dôi dư hay lao động nói chung cần được quan tâm nhiều hơn. Hơn nữa, nhằm làmgiảmnhững tổn thất liên quan đến đời sống của lao động ở các đơn vị này, v, v„ SCIC nên được tăng cường kỹ năng và kiến thức đầu tư, nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư mà không phải cắt giảm các chi phí khác. DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT PTB - Price-To-Book - Chỉ số thị giá trên thư giá, ROA - Return On Assets - Tỷ suất lợi nhuận trên tài sản, ROE - Return On Equity - Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, SCIC - State Capital Investment Corporation - Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước, SWF - SovereignWealth Fund - Quỹ đầu tư quốc gia, TUYÊN BỐ XUNGĐỘT LỢI ÍCH Tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung đột lợi ích nào trong công bố bài báo. TUYÊN BỐĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC GIẢ Nội dung bài nghiên cứu do tác giả thực hiện. TÀI LIỆU THAMKHẢO 1. Bortolotti B, Fotak V, Megginson W. Sovereign wealth fund investment patterns and performance. Fondazione Eni Enrico Mattei. 2009;22:1–37. Available from: https://doi.org/10.2139/ ssrn.1573346. 2. Estrin S, Hanousek J, Kočenda E, Svejnar J. The effects of privatization and ownership in transition economies. Jour- nal of Economic Literature. 2009;47(3):1–30. Available from: https://doi.org/10.1257/jel.47.3.699. 3. Raymond H. The effect of Sovereign Wealth Funds’ involve- ment on stock markets. Bank of France Working Papers. 2008;7:1–12. 4. Gangi F, Meles A, Mustilli M, Graziano D, Varrone N. Do invest- ment determinants and effects vary across sovereign wealth fund categories? A firm level analysis. Emerging Market Re- view. 2019;38:438–457. Available from: https://doi.org/10. 1016/j.ememar.2018.12.004. 5. Park RJ, Xu S, In F. The long-term impact of sovereign wealth fund investments. Journal of Financial Markets. 2019;45:115– 138. Available from: https://doi.org/10.1016/j.finmar.2018.08. 004. 6. Ngọc DB. Đánh giá tác động của Quỹ đầu tư quốc gia đến giá trị của doanh nghiệp - Nghiên cứu thực nghiệm một số SWF lớn trên thế giới. Đề tài khoa học và công nghệ cấp trường Đại học Đà Nẵng. 2016;. 7. Hương PT. Quản lý, đầu tư kinh doanh vốn nhà nước tại SCIC: Thực trạng và một số đề xuất. Tạp chí Tài chính. 2016;. 8. Quốc PP. Quản lý hiệu quả vốn tại cácDoanhnghiệp nhà nước - từ thực tiễn công ty trách nhiệmhữuhạnmột thành viên của Thành phố Hồ Chí Minh [Luận án tiến sỹ]. Đại học Ngân hàng Tp Hồ Chí Minh. 2015;. 9. Fernandes N. The impact of sovereign wealth funds on cor- porate value and performance. Journal of Applied Corporate Finance. 2014;26(1):76–84. 10. Marrez H. The role of state-owned enterprises in Romania. ECFIN Country Focus. 2015;12(1):1–8. 11. Roodman D. A note on the theme of too many instruments. Oxford Bulletin of Economics and Statistics. 2009;71(1):135– 158. Available from: https://doi.org/10.1111/j.1468-0084.2008. 00542.x. 12. Kotter J, Lel U. Friends or foes? Target selection decisions of sovereign wealth funds and their consequences. Journal of Financial Economics. 2011;101(2):360–381. Available from: https://doi.org/10.1016/j.jfineco.2011.03.007. 13. Dewenter KL, Han X, Malatetesta PH. Firm values and sovereign wealth fund investments. Journal of Financial Eco- nomics. 2010;98(2):256–278. Available from: https://doi.org/ 10.1016/j.jfineco.2010.05.006. 14. Knill AM, Lee BS, Mauck N. Sovereign wealth fund investment and the return-to-risk performance of target firms. Journal of Financial Intermediation. 2012;21(2):315–340. Available from: https://doi.org/10.1016/j.jfi.2011.10.001. 694 Science & Technology Development Journal – Economics - Law andManagement, 4(2):686-695 Open Access Full Text Article Research Article Department of Propaganda and Training Correspondence Nguyen Thanh Doan, Department of Propaganda and Training Email: ntdoan2017@gmail.com History Received: 18/7/2019 Accepted: 10/8/2019 Published: 27/6/2020 DOI : 10.32508/stdjelm.v4i2.618 Copyright © VNU-HCM Press. This is an open- access article distributed under the terms of the Creative Commons Attribution 4.0 International license. On the performance of state capital and investment corporation Nguyen Thanh Doan* Use your smartphone to scan this QR code and download this article ABSTRACT State Capital and Investment Corporation (SCIC) is a sovereign wealth fund (SWF) operating as a governmental specialized economic entity. SCIC serves twomain functions: first, manage and rep- resent the equity share of state at public companies, limited companies, and second, invest state capital into strategic industries and fields of the economy. This study compares the impacts of the ownership of SCIC and the state on the performance of target firms in Vietnam. In addition, the current study aims to extend the extant literature by examining the impact of sovereign wealth fund (SWF, in this case, SCIC in Vietnam) on the performance of target firms in Vietnam. Previous studies only consider the influence of SWF on target firms' operating performance without consid- ering the country where the target firms reside. Finally, the research investigates the influence of the ownership of SCIC and the state not only on financial but also on the non-financial performance of target firms, whereas previous research chiefly discusses the financial impact of SWFs. The au- thor uses the Generalized System Method of Moments for a sample of listed firms collected from ThomsonReuters for the period of 2008-2017 to dealwith thepotential endogeneity issue aswell as other defects such as heteroskedasticity and autocorrelation. The results show that SCIC ownership has a positive impact on target firms' financial performance, compared to state ownership. How- ever, SCIC ownership exerts a more negative impact on target firms' non-financial performance, compared to state one. This finding implies that SCIC may prioritize financial indicators over non- financial (or social) ones. This could justify the reason why SCIC ownership has a better financial but lower non-financial performance compared with state ownership. Key words: State Capital Investment Corporation (SCIC), Sovereign Wealth Fund (SWF), State- Owned Enterprises (SOE) Cite this article : Doan N T. On the performance of state capital and investment corporation. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. Law Manag.; 4(2):686-695. 695
File đính kèm:
- danh_gia_hieu_qua_hoat_dong_cua_tong_cong_ty_dau_tu_va_kinh.pdf