Đánh giá hệ sinh thái khởi nghiệp tại An Giang 2017 - 2018
ABSTRACT
This paper aims to measure the entreprenueral ecosystem in An Giang
province, Vietnam. It is based on the methodology of Global
Enrepreneurship Research Association (GERA) in measuring Global
Entrepreneurship Monitor (GEM). Primary data were gathered from surveys
of 36 provincial experts and 450 adult population in An Giang in October
and November, 2017. The results showedthat the ratio of Total Early-stage
Entrepreneurial Activity (TEA) in An Giang province is higher than that of
TEA of Vietnam, however, the motivation to start up was lower than that of
Viet Nam data. This is the same with the potential in start up of adult people.
The 2 hardest barriers of entrepreineur environment, regarding the experts’
evaluation, are related to finance and business education at secondary
school.
TÓM TẮT
Mục tiêu của bài viết nhằm phân tích hệ sinh thái khởi nghiệp tại An Giang.
Khảo sát này dựa trên cách tiếp cận đánh giá hệ số khởi nghiệp toàn cầu
GEM (Global Entrepreneurship Monitor) từ Hiệp hội Nghiên cứu Khởi
nghiệp Toàn cầu GERA (Global Enrepreneurship Research Association).
Nguồn dữ liệu ban đầu được thu thập từ 36 chuyên gia và 450 người trưởng
thành trong toàn tỉnh An Giang. Kết quả phân tích chỉ ra tỉ lệ trong giai
đoạn đầu khởi nghiệp của An Giang ở mức cao hơn trung bình cả nước,
nhưng động cơ để bắt đầu khởi sự là điểm bất lợi. Điều này cũng tương tự
với tiềm năng khởi nghiệp trong tương lai của người trưởng thành. Riêng
đánh giá của chuyên gia An Giang thì cản ngại lớn nhất đến môi trường khởi
nghiệp hiện nay tập trung vào hai trụ cột liên quan đến tài chính và giáo dục
kinh doanh ở bậc phổ thông.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá hệ sinh thái khởi nghiệp tại An Giang 2017 - 2018
AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 38 – 52 38 ĐÁNH GIÁ HỆ SINH THÁI KHỞI NGHIỆP TẠI AN GIANG 2017 - 2018 Trần Thị Út1, Huỳnh Thạnh2, Nguyễn Hữu Trí3 1Trường Trường Đại học Hoa Sen 2Trường Đại học Thủ Dầu Một 3Trường Đại học An Giang, ĐHQG-HCM Thông tin chung: Ngày nhận bài: 11/10/2019 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 14/02/2020 Ngày chấp nhận đăng: 06/2020 Title: The assessment of entrepreneurial ecosystem 2017 - 2018 in An Giang province Keywords: Entrepreneurship, entrepreneurial ecosystem, GEM Từ khóa: Khởi nghiệp, hệ sinh thái khởi nghiệp, GEM ABSTRACT This paper aims to measure the entreprenueral ecosystem in An Giang province, Vietnam. It is based on the methodology of Global Enrepreneurship Research Association (GERA) in measuring Global Entrepreneurship Monitor (GEM). Primary data were gathered from surveys of 36 provincial experts and 450 adult population in An Giang in October and November, 2017. The results showedthat the ratio of Total Early-stage Entrepreneurial Activity (TEA) in An Giang province is higher than that of TEA of Vietnam, however, the motivation to start up was lower than that of Viet Nam data. This is the same with the potential in start up of adult people. The 2 hardest barriers of entrepreineur environment, regarding the experts’ evaluation, are related to finance and business education at secondary school. TÓM TẮT Mục tiêu của bài viết nhằm phân tích hệ sinh thái khởi nghiệp tại An Giang. Khảo sát này dựa trên cách tiếp cận đánh giá hệ số khởi nghiệp toàn cầu GEM (Global Entrepreneurship Monitor) từ Hiệp hội Nghiên cứu Khởi nghiệp Toàn cầu GERA (Global Enrepreneurship Research Association). Nguồn dữ liệu ban đầu được thu thập từ 36 chuyên gia và 450 người trưởng thành trong toàn tỉnh An Giang. Kết quả phân tích chỉ ra tỉ lệ trong giai đoạn đầu khởi nghiệp của An Giang ở mức cao hơn trung bình cả nước, nhưng động cơ để bắt đầu khởi sự là điểm bất lợi. Điều này cũng tương tự với tiềm năng khởi nghiệp trong tương lai của người trưởng thành. Riêng đánh giá của chuyên gia An Giang thì cản ngại lớn nhất đến môi trường khởi nghiệp hiện nay tập trung vào hai trụ cột liên quan đến tài chính và giáo dục kinh doanh ở bậc phổ thông. 1. GIỚI THIỆU Trong những năm gần đây, hệ sinh thái khởi nghiệp đã được nhiều học giả nghiên cứu dưới dạng khái quát hóa (Alvedalen and Boschma, 2017; Roundy, Bradshaw and Brockman, 2018; Malecki, 2018). Thuật ngữ hệ sinh thái khởi nghiệp được hiểu theo nhiều quan điểm khác nhau tùy theo cách tiếp cận. Chẳng hạn, Stam (2015) đưa ra khái niệm hệ sinh thái khởi nghiệp “là một AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 38 – 52 39 sự tổng hòa của các chủ thể và nhân tố phụ thuộc lẫn nhau liên kết lại bằng một cách nào đó để thực hiện khởi nghiệp”. Cụ thể hơn, quan điểm của Mason and Brown (2014) cho rằng hệ sinh thái khởi nghiệp là một tập hợp kết nối qua lại (chính thức và phi chính thức) giữa ba thành phần gồm chủ thể khởi nghiệp (tiềm năng và hiện tại), tổ chức khởi nghiệp (doanh nghiệp, nguồn vốn đầu tư mạo hiểm, các ngân hàng) và các cơ quan (trường đại học, cơ quan nhà nước) để tiến hành quá trình khởi nghiệp (tỉ lệ thành lập doanh nghiệp mới, số lượng doanh nghiệp tăng trưởng cao) trong phạm vi môi trường khởi nghiệp tại địa phương. Trong khi đó, Acs, Szerb and Lloyd (2017) nhấn mạnh chủ thể khởi nghiệp là “trái tim của hệ thống”, những người khởi nghiệp thường tự bị chi phối bởi thái độ, khả năng và tinh thần bên cạnh các yếu tố vĩ mô khác. Như vậy, những quan điểm này nhìn nhận hệ sinh thái khởi nghiệp theo nhiều góc độ, bao quát và hệ thống. Trong bài viết này, hệ sinh thái khởi nghiệp được phân tích dựa trên khung tiếp cận đo lường hệ số khởi nghiệp toàn cầu (Global Entrepreneurship Monitor - GEM) của Hiệp hội Nghiên cứu Khởi nghiệp Toàn cầu (Global Entrepreneurship Research Association - GERA). Với góc đo đa chiều, báo cáo về GEM năm 2017-2018 đã có sự tham gia của 54 nền kinh tế toàn cầu, chiếm 86,0% GDP và 67,8% dân số thế giới (GERA, 2018, p.20). Theo Ács, Desai and Klapper (2008), GEM có lợi thế đánh giá tiềm năng khởi nghiệp hơn so với bộ đánh giá khác. Cách tiếp cận này không chỉ đánh giá được môi trường vĩ mô (thông qua các chuyên gia) và cả bản thân của những người trong cuộc (thông qua người trưởng thành). Việt Nam tham gia vào GEM từ năm 2013 và đến 2017-2018 tỉnh An Giang được chọn đại diện để đánh giá hệ số khởi nghiệp vùng Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Mục tiêu chính của bài viết này nêu lên hệ sinh thái khởi nghiệp tỉnh An Giang đứng trên quan điểm về khởi nghiệp từ các chuyên gia có liên quan và của người trưởng thành trong tỉnh. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Tiếp cận đo lường hệ sinh thái khởi nghiệp GEM Bắt đầu từ năm 1999, GEM như là một dự án giữa 2 trường Đại học Babson Coll ... VIỆT NAM AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 38 – 52 45 hiểm - 2,3 điểm; tài trợ từ nhà đầu tư cá nhân - 3,5 điểm; chính phủ có đủ nguồn vốn để trợ cấp - 3,8 điểm); 2 tiêu chí về giáo dục bậc phổ thông (hướng dẫn các nguyên tắc kinh tế thị trường - 2,3 điểm; quan tâm đúng mức đến khởi sự và kinh doanh - 2,5 điểm); 2 tiêu chí trong chuyển giao công nghệ (đủ điều kiện để áp dụng công nghệ mới nhất - 3,9 điểm; hỗ trợ hiệu quả từ các cơ sở khoa học và công nghệ - 3,9 điểm) và cuối cùng là tiêu chí “các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển có đủ khả năng chi trả các chi phí sử dụng các nhà thầu phụ, nhà cung cấp và nhà tư vấn” - 3,7 điểm trong nhân tố dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Hình 3 thể hiện 9 trụ cột của hệ sinh thái khởi nghiệp tại An Giang qua đánh giá của các chuyên gia trong năm 2017, nhìn chung, các chuyên gia có góc nhìn “lạc quan” hơn so với bức tranh tổng thể của Việt Nam. Các nhóm nhân tố ảnh hưởng đến môi trường khởi nghiệp An Giang được chuyên gia địa phương đánh giá cao hơn so với mức trung bình của Việt Nam (ngoại trừ nhân tố mức năng động thị trường, cơ sở hạ tầng và chênh lệch không đáng kể về nhân tố độ mở thị trường; tài chính). Tương tự bối cảnh chung, nhân tố tài chính và giáo dục bậc phổ thông là hai nhóm cản ngại đến môi trường khởi nghiệp tại An Giang. Trong đó, yếu tố liên quan đến tài chính mà chuyên gia nhận định yếu gồm: Có sẵn nguồn vốn thông qua phát hành cổ phiếu lần đầu; nguồn vốn đầu tư mạo hiểm; nguồn vốn từ chính phủ; nhà đầu tư cá nhân. Cũng như vậy, mặc dù tiêu chí “có đủ điều kiện để áp dụng công nghệ mới nhất” - 3,9 điểm; “có đủ khả năng chịu được các chi phí thâm nhập thị trường” - 4,1 điểm, không được xếp vào nhân tố tài chính nhưng để làm được điều này thì đảm bảo tài chính là yếu tố tiên quyết mà các doanh nghiệp mới khởi sự và đang phát triển cần phải có. Yếu tố còn lại liên quan đến giáo dục gồm: Hướng dẫn quy tắc kinh tế thị trường và quan tâm đúng mức khởi sự và kinh doanh. Hình 3. Hệ sinh thái khởi nghiệp An Giang và Việt Nam năm 2017 Nguồn: Số liệu điều tra và tổng hợp AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 38 – 52 46 4. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH Qua kết quả phân tích ở các phần trên cho thấy bức tranh tổng quát của hệ sinh thái khởi nghiệp tại An Giang. Mặc dù tỉ lệ giai đoạn đầu khởi nghiệp của An Giang cao hơn mức chung của cả nước nhưng động cơ khởi nghiệp (vì cơ hội hoặc không còn lựa chọn nào khác) lại là điểm yếu. Điều này cũng tương tự với tỉ lệ khởi nghiệp tiềm năng trong tương lai. Đứng dưới góc độ đánh giá từ các chuyên gia, những điểm tương đồng mà các chuyên gia đánh giá chung cho cả nước và các chuyên gia địa phương đánh giá riêng cho An Giang đều cho thấy 2 nhân tố về tài chính cho khởi nghiệp và giáo dục khởi nghiệp bậc phổ thông là hai rào cản trong hệ sinh thái hiện nay. Ngược lại, những điểm mạnh mà các chuyên gia đều đồng tình gồm mức độ năng động thị trường nội địa; cơ sở hạ tầng và văn hóa - chuẩn mực xã hội đối với khởi nghiệp. Trên những cơ sở này, một số khuyến nghị để cải thiện môi trường khởi nghiệp tại An Giang nên quan tâm đến một số nhóm chính sách sau: Vốn hỗ trợ cho doanh nghiệp khởi nghiệp và đang phát triển: Hiện nay, cơ sở pháp lý ban đầu đã được ban hành nhằm hỗ trợ nguồn vốn cho khởi nghiệp, đây là điều kiện thuận lợi để hình thành các nguồn vốn đầu tư khởi nghiệp, đầu tư mạo hiểm, quỹ tín dụng từ các nguồn vốn khác nhau không chỉ từ ngân sách nhà nước mà còn đến từ cộng đồng doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp lớn), cộng đồng dân cư hay cá nhân. Giáo dục và đào tạo: Thay đổi môi trường và cách tiếp cận trong hệ thống giáo dục khởi nghiệp bậc phổ thông là cần thiết. Cách giáo dục tư duy và sáng tạo cần thay thế cách dạy và học thụ động mang nặng tính áp đặt. Những kiến thức cơ bản nhất về thị trường cũng nên đưa vào chương trình trung học phổ thông qua các buổi ngoại khóa hay bằng một môn học chính thức. Hiện nay, chính phủ đã phê duyệt Đề án 1665 liên quan đến khởi nghiệp trong các cơ sở giáo dục và cũng đã có công văn chỉ đạo cho các cơ sở giáo dục đại học bổ sung nội dung khởi nghiệp vào chương trình giảng dạy, điều này có đẩy mạnh “sân chơi” cho những sinh viên có ý tưởng về khởi nghiệp. Các chính sách về khởi nghiệp từ Trung ương đến địa phương cần rõ ràng, chi tiết và đồng bộ nhằm tạo điều kiện để thực thi hóa. Mỗi địa phương sẽ có những đặc thù riêng , do vậy những chính sách đưa ra cần thông thoáng, có độ mở cần thiết để tận dụng được lợi thế tại địa phương. Ban hành các chính sách ưu tiên cho khởi sự doanh nghiệp và tạo doanh nghiệp mới là điều kiện cần thiết nhằm cải thiện môi trường khởi nghiệp. Trên địa bàn tỉnh, chính quyền cần tạo một đầu mối duy nhất liên quan đến khởi nghiệp và doanh nghiệp mới để người tham gia khởi nghiệp có thể tiếp cận mọi thông tin liên quan (chính sách, vốn, tư vấn, thủ tục pháp lý, thông tin về thị trường trong và ngoài nước, nâng cao năng lực, đối thoại định kỳ) được kịp thời và tránh chồng chéo qua quá nhiều cơ quan. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền cần phổ biến rộng rãi tránh tình trạng theo phong trào hoặc “ảo tưởng” về khởi nghiệp. Tiếp tục, hoàn thiện cơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho môi trường kinh doanh, cơ sở vật chất cho các “vườn ươm doanh nghiệp”. Đẩy mạnh hợp tác chuyển giao nghiên cứu giữa các viện nghiên cứu, trường đại học ra ngoài môi trường kinh doanh hướng đến tính sáng tạo và khả năng nhân rộng. TÀI LIỆU THAM KHẢO. Acs, Z. J., Szerb, L.& Lloyd, A. (2017). Enhancing Entrepreneurial Ecosystems: A GEI Approach to Entrepreneurship Policy Global Entrepreneurship and Development Index 2017. Cham: Springer International Publishing. Acs, Z. J., Desai, S. & Klapper, L. F. (2008). What does “entrepreneurship” data really show?. Small Business Economics, 31, 265- 281. Alvedalen, J.& Boschma, R. (2017). A critical review of entrepreneurial ecosystems research: AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 38 – 52 47 towards a future research agenda. European Planning Studies, 25, 887-903. Global Entrepreneurship Research Association. (2018). Global entrepreneurship monitor 2017/18 global report. GERA. Malecki, E.J. (2018). Entrepreneurship and entrepreneurial ecosystems. Geography Compass, 12(3), e12359. Doi: 10.1111/gec3.12359. Mason, C. & Brown, R. (2014). Entrepreneurial ecosystems and growth oriented entrepreneurship. Background paper prepared for the workshop organised by the OECD LEED Programme and the Dutch Ministry of Economic Affairs on Entrepreneurial Ecosystems and Growth Oriented Entrepreneurship, The Hague, Netherlands Roundy, P. T., Bradshaw, M.& Brockman, B. K. (2018). The emergence of entrepreneurial ecosystems: A complex adaptive systems approach. Journal of Business Research, 86, 1- 10. Kelly, D., Singer, S. & Herrington, M. (2016). Global entrepreneurship monitor 2015/2016 global report. GERA Sohns, F., & Diez, J. R. (2018). Explaining micro entrepreneurship in rural Vietnam—a multilevel analysis. Small Business Economics, 50, 219-237. Doi: 10.1007/s11187-017-9886-2. Stam, E. (2015). Entrepreneurial Ecosystems and Regional Policy: A Sympathetic Critique. European Planning Studies, 23, 1759-1769. Doi: 10.1080/09654313.2015.1061484 VCCI. (2016). Report global entrepreneurship monitor Vietnam 2015/16. Hanoi, Vietnam: Publishing House of Transport. Zhu, L., Kara, O., Chu, H. M. & Chu, A. (2015). Female entrepreneurship: Evidence from Vietnam. Journal of Business and Entrepreneurship, 26, 103-128. AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 38 – 52 48 PHỤ LỤC 1: QUI TRÌNH TÍNH TOÁN TEA AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 38 – 52 49 PHỤ LỤC 2 Phụ lục 2. Đánh giá chuyên gia về môi trường khởi nghiệp tại An Giang Các tiêu chí đánh giá Trung bình Tài chính Các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển có thể huy động được đủ vốn từ các nguồn tự có. 4.39 (2.15)(1) Các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển có thể huy động được đủ vốn từ các nguồn đi vay. 5.30 (1.93) Chính quyền tỉnh có đủ nguồn vốn trợ cấp cho các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển. 3.76 (2.45) Có sẵn nguồn vốn từ các nhà đầu tư không chính thức (gia đình, bạn bè và đồng nghiệp) là cá nhân (ngoài thành viên sáng lập) cho các doanh nghiệp mới và phát triển. 5.31 (2.14) Có sẵn tài trợ từ các nhà đầu tư cá nhân (Business Angels funding) cho các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển. 3.45 (2.00) Có sẵn nguồn vốn đầu tư mạo hiểm cho các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển. 2.29 (1.83) Có sẵn nguồn vốn thông qua IPO (phát hành cổ phiếu lần đầu). 2.03 (1.43) Có sẵn nguồn vốn từ các quỹ cho vay tư nhân (quỹ huy động vốn từ cộng đồng) cho các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển. 4.91 (2.69) Chính sách của chính phủ Các chính sách của Chính quyền tỉnh (ví dụ: mua sắm công) luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mới khởi sự. 4.56 (2.51) Chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển luôn là một ưu tiên đặc biệt đối với Chính quyền Tỉnh. 5.79 (2.43) Chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển luôn được các quận huyện, sở ngành ưu tiên đặc biệt. 5.69 (2.41) (1) Số trong ngoặc đơn là độ lệch chuẩn AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 38 – 52 50 Doanh nghiệp mới khởi sự có thể nhận được hầu hết các giấy phép trong vòng một tuần. 6.12 (2.13) Số tiền thuế phải đóng không phải là một gánh nặng cho các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển. 4.82 (2.65) Thuế và các chính sách khác của Chính quyền tỉnh đối với các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển được áp dụng một cách nhất quán và có thể dự đoán được. 6.21 (2.01) Các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển không quá khó khăn trong việc nắm bắt những quy định, yêu cầu về giấy phép và thủ tục hành chính của Chính quyền tỉnh. 6.33 (2.53) Phụ lục 2. Đánh giá chuyên gia về môi trường khởi nghiệp tại An Giang (t.theo) Các tiêu chí đánh giá Trung bình Chương trình của chính phủ Các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển có thể tiếp cận hàng loạt các hỗ trợ của tỉnh thông qua một cơ quan duy nhất. 4.23 (2.73) Công viên khoa học và vườn ươm doanh nghiệp hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển. 4.24 (2.44) Chính quyền tỉnh có đầy đủ các chương trình hỗ trợ cho các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển. 5.31 (1.99) Những cán bộ làm việc cho các cơ quan của Chính quyền tỉnh có đủ năng lực và hỗ trợ hiệu quả các DN mới khởi sự và DN đang phát triển. 5.09 (1.80) Hầu hết những người cần giúp đỡ từ các chương trình hỗ trợ của Chính quyền tỉnh để khởi sự doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp đều có thể tìm thấy những điều họ cần. 4.87 (2.26) Các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển của Chính quyền tỉnh rất hiệu quả 5.14 (1.82) Giáo dục và đào tạo Giáo dục cấp tiểu học và trung học cơ sở khuyến khích sự sáng tạo, tự tin và tính chủ động. 4.67 (2.00) Giáo dục cấp tiểu học và trung học cơ sở hướng dẫn đầy đủ các nguyên tắc kinh tế thị trường. 2.33 (1.51) Giáo dục cấp tiểu học và trung học cơ sở tạo sự quan tâm đúng mức đến kinh doanh và việc khởi sự các doanh nghiệp mới. 2.52 (1.66) Các trường cao đẳng và đại học cung cấp đầy đủ kiến thức chuẩn bị cho việc khởi sự doanh nghiệp mới và phát triển các doanh nghiệp. 5.28 (1.75) AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 38 – 52 51 Các trường đào tạo về kinh doanh và quản trị hướng dẫn tốt và đầy đủ sự chuẩn bị cho việc khởi sự doanh nghiệp mới và phát triển các doanh nghiệp. 5.79 (1.67) Hệ thống giáo dục dạy nghề, chuyên nghiệp hướng dẫn tốt và đầy đủ sự chuẩn bị cho việc khởi sự doanh nghiệp mới và phát triển các doanh nghiệp. 5.21 (1.82) Chuyển giao nghiên cứu và phát triển Công nghệ mới, khoa học và các kiến thức khác được các trường đại học và trung tâm nghiên cứu chuyển giao hiệu quả cho các doanh nghiệp khởi sự mới và doanh nghiệp đang phát triển. 4.85 (1.56) Các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển có thể tiếp cận các nghiên cứu và công nghệ mới đầy đủ như các doanh nghiệp lớn. 4.69 (2.18) Phụ lục 2. Đánh giá chuyên gia về môi trường khởi nghiệp tại An Giang (t.theo) Các tiêu chí đánh giá Trung bình Chuyển giao nghiên cứu và phát triển Các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển có đủ điều kiện để áp dụng công nghệ mới nhất 3.94 (1.84) Chính phủ hỗ trợ đầy đủ cho các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển trong việc tiếp cận được công nghệ mới. 4.94 (1.97) Các cơ sở khoa học và công nghệ hỗ trợ hiệu quả cho việc tạo ra các doanh nghiệp có vốn đầu tư mạo hiểm ít nhất là trong một lĩnh vực nào đó. 3.87 (1.98) Có sự hỗ trợ cho các kỹ sư, các nhà khoa học trong việc thương mại hóa ý tưởng của họ thông qua các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển. 5.03 (2.26) Dịch vụ hỗ trợ kinh doanh Có đủ các nhà thầu phụ, các nhà cung cấp và các nhà tư vấn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển. 4.45 (2.14) Các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển có đủ khả năng chi trả các chi phí sử dụng các nhà thầu phụ, nhà cung cấp và nhà tư vấn. 3.71 (1.75) Các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển dễ dàng tìm được các nhà thầu phụ, nhà cung cấp và nhà tư vấn tốt. 4.15 (2.05) AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 26 (3), 38 – 52 52 Các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển dễ dàng có được các dịch vụ pháp lý và dịch vụ kế toán tốt, chuyên nghiệp. 5.09 (1.90) Các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển dễ dàng có được các dịch vụ ngân hàng tốt (kiểm tra tài khoản, các giao dịch ngoại hối, thư tín dụng, vv). 6.91 (2.07) Độ mở thị trường trong nước Thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ biến động mạnh hàng năm (thị trường doanh nghiệp tới người tiêu dùng). 6.56 (1.98) Thị trường hàng hoá công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh (thị trường doanh nghiệp tới doanh nghiệp) biến động mạnh hàng năm. 6.07 (1.69) Các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển có thể dễ dàng gia nhập vào các thị trường mới. 5.08 (2.47) Các doanh nghiệp mới khởi sự và doanh nghiệp đang phát triển có đủ khả năng chịu được các chi phí thâm nhập thị trường. 4.11 (1.89)
File đính kèm:
- danh_gia_he_sinh_thai_khoi_nghiep_tai_an_giang_2017_2018.pdf