Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam

Tóm tắt: Trong hai thập niên gần đây, câu chuyện thành công của ngành công nghiệp văn

hóa (CNVH) trên phạm vi toàn cầu đã làm thay đổi đáng kể nhận thức và cách tiếp cận đối

với ngành kinh tế này ở Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn thiếu vắng một bộ khung lý

thuyết hoàn chỉnh và phù hợp cho các chiến lược phát triển lâu dài của ngành CNVH trong

thời gian tới. Trong đó, việc phát triển theo hướng là CNVH theo nhận thức truyền thống

hay là ngành công nghiệp sáng tạo (CNST), vốn đã được thừa nhận và phát triển tại nhiều

nước trên thế giới, là một vấn đề cần được xem xét thấu đáo nhằm hướng đến một sự thống

nhất trong cách tiếp cận và tìm kiếm một mô hình phát triển phù hợp cho Việt Nam.

Từ khóa: Công nghiệp văn hóa, Công nghiệp sáng tạo, Chính sách văn hóa, Chiến lược

ngành công nghiệp văn hóa

Abstract: In the last two decades, the success story of cultural industry on a global scale

has significantly changed the perception and approach to this economic sector in Vietnam.

However, there’s a dearth of a complete theoretical framework which is suitable for its

long-term development strategies in the future. In particular, whether cultural industry

is interpreted with a traditional mindset or as a creative one which has been broadly

recognized in various countries, is a matter that needs thorough consideration towards a

unified approach in pursuit of an appropriate model for Vietnam.

Keywords: Cultural Industry, Creative Industry, Cultural Policy, Cultural Industry

Strategy

Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam trang 1

Trang 1

Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam trang 2

Trang 2

Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam trang 3

Trang 3

Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam trang 4

Trang 4

Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam trang 5

Trang 5

Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam trang 6

Trang 6

Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam trang 7

Trang 7

pdf 7 trang baonam 10440
Bạn đang xem tài liệu "Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam

Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201938
Công nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo 
và sự lựa chọn mô hình phù hợp cho Việt Nam
Lại Thị Thanh Bình(*)
Tóm tắt: Trong hai thập niên gần đây, câu chuyện thành công của ngành công nghiệp văn 
hóa (CNVH) trên phạm vi toàn cầu đã làm thay đổi đáng kể nhận thức và cách tiếp cận đối 
với ngành kinh tế này ở Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn còn thiếu vắng một bộ khung lý 
thuyết hoàn chỉnh và phù hợp cho các chiến lược phát triển lâu dài của ngành CNVH trong 
thời gian tới. Trong đó, việc phát triển theo hướng là CNVH theo nhận thức truyền thống 
hay là ngành công nghiệp sáng tạo (CNST), vốn đã được thừa nhận và phát triển tại nhiều 
nước trên thế giới, là một vấn đề cần được xem xét thấu đáo nhằm hướng đến một sự thống 
nhất trong cách tiếp cận và tìm kiếm một mô hình phát triển phù hợp cho Việt Nam.
Từ khóa: Công nghiệp văn hóa, Công nghiệp sáng tạo, Chính sách văn hóa, Chiến lược 
ngành công nghiệp văn hóa
Abstract: In the last two decades, the success story of cultural industry on a global scale 
has signifi cantly changed the perception and approach to this economic sector in Vietnam. 
However, there’s a dearth of a complete theoretical framework which is suitable for its 
long-term development strategies in the future. In particular, whether cultural industry 
is interpreted with a traditional mindset or as a creative one which has been broadly 
recognized in various countries, is a matter that needs thorough consideration towards a 
unifi ed approach in pursuit of an appropriate model for Vietnam.
Keywords: Cultural Industry, Creative Industry, Cultural Policy, Cultural Industry 
Strategy
I. Khái niệm1
Công nghiệp văn hóa 
Thuật ngữ CNVH được cho là xuất hiện 
lần đầu tiên trong tác phẩm Biện chứng của 
sự khai sáng (Dialectic of Enlightenment) 
của hai triết gia người Đức là Theodor W. 
Adorno và Max Horkheimer, xuất bản vào 
(*) ThS., Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn 
lâm Khoa học xã hội Việt Nam; 
Email: laithanhbinhissi@gmail.com
năm 1944. Năm 1998, trong báo cáo Văn 
hóa, sáng tạo và thị trường, UNESCO lần 
đầu tán thành khái niệm CNVH theo nghĩa 
đây là một lĩnh vực có nhiều tiềm năng 
kinh tế. Từ đó trở đi, CNVH đã trở thành 
một trong những trọng tâm thảo luận của 
UNESCO và được đưa vào các chính sách 
về phát triển kinh tế - xã hội của các quốc 
gia và khu vực. Khái niệm CNVH mới đây 
được UNESCO đưa ra vào năm 2007, theo 
đó CNVH được hiểu là các ngành sản xuất 
Công nghiệp văn hóa 39
ra những sản phẩm vật thể và phi vật thể về 
nghệ thuật và sáng tạo, có tiềm năng thúc 
đẩy việc tạo ra của cải và thu nhập thông 
qua việc khai thác những giá trị văn hóa 
và sản xuất những sản phẩm và dịch vụ 
dựa vào tri thức (kể cả những giá trị văn 
hóa hiện đại và truyền thống). Điểm chung 
nhất của các ngành công nghiệp văn hóa 
là nó sử dụng tính sáng tạo, tri thức văn 
hóa và bản quyền trí tuệ để sản xuất ra các 
sản phẩm và dịch vụ, cũng như nó mang 
giá trị văn hóa. Cơ cấu ngành CNVH được 
UNESCO giới hạn ở 11 lĩnh vực gồm: 
quảng cáo; kiến trúc; giải trí kỹ thuật số; 
mỹ thuật đồ cổ và thủ công mỹ nghệ; thiết 
kế mỹ thuật; phim ảnh và video; in ấn xuất 
bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn; phát 
thanh truyền hình; và phần mềm (mang nội 
dung văn hóa) (UNESCO, 2007: 11).
Khái niệm này của UNESCO được 
coi là phù hợp với tiêu chí và quan điểm 
của nhiều quốc gia, đã trở thành cơ sở lý 
luận quan trọng cho các chính phủ và các 
nhà nghiên cứu trong quá trình đánh giá 
và hoạch định chính sách phát triển ngành 
CNVH. 
Công nghiệp sáng tạo 
Năm 1994, ý tưởng về một nền kinh 
tế sáng tạo hoặc các ngành công nghiệp 
sáng tạo (creative industries) lần đầu tiên 
xuất hiện ở Australia, về cơ bản vẫn dựa 
trên khung thống kê dành cho CNVH, 
nhưng nhấn mạnh đến các yếu tố sáng tạo 
trong quá trình sản xuất ra các sản phẩm 
văn hóa. Theo đó, việc thương mại hóa các 
sản phẩm mang tính ý tưởng, có liên quan 
đến văn hóa và nghệ thuật, là tiền đề cho 
sự hình thành của ngành CNST. Khái niệm 
này nhanh chóng được thừa nhận, ủng hộ 
và được đưa vào chiến lược phát triển kinh 
tế của nhiều nước, dần thay thế cho quan 
niệm CNVH trước đó.
Theo quan điểm của UNCTAD (Hội 
nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và 
Phát triển), CNST là các chu kỳ sáng tạo, 
sản xuất và phân phối hàng hoá và dịch vụ 
mà sự sáng tạo và vốn tri thức đóng vai trò 
là đầu vào chính; tạo thành một tập hợp 
các hoạt động dựa trên tri thức, tập trung 
nhưng không giới hạn ở các lĩnh vực nghệ 
thuật, có khả năng mang lại nguồn thu từ 
các hoạt động thương mại và sở hữu trí 
tuệ, tạo thành một ngành kinh tế năng động 
mới trong thương mại quốc tế. UNCTAD 
phân loại các ngành CNST thành 4 nhóm 
chính: (1) Nhóm ngành di sản được xác 
định gồm hai phân nhóm là các biểu hiện 
văn hóa truyền thống (các ngành nghệ thuật 
thủ công, các lễ hội và các lễ kỷ niệm) và 
các địa điểm văn hóa (các địa điểm khảo 
cổ, ... c Đài 
Loan định nghĩa là ngành được hình thành 
và hoạt động từ việc tích luỹ sáng tạo hoặc 
văn hóa, thông qua sở hữu trí tuệ có tiềm 
năng tạo ra của cải và cơ hội việc làm cũng 
như thúc đẩy tố chất tinh thần của toàn 
dân, nâng cao môi trường sống của người 
dân (Theo: Trần Thị Thủy, 2019: 62). Định 
nghĩa này về cơ bản khá giống với quan 
điểm CNST của Anh, đều nhấn mạnh yếu 
tố sở hữu trí tuệ, tạo ra giá trị vật chất và 
giải quyết vấn đề việc làm cho người dân. 
Chính phủ Đài Loan xác đị nh CNVH và 
sáng tạo gồ m 15 ngành nằm trong 4 nhóm: 
(1) Nhóm các ngành công nghiệ p nghệ 
thuậ t: Nghệ thuậ t thị giác; Âm nhạ c và 
Nghệ thuậ t biể u diễ n; Ứ ng dụ ng di sả n vă n 
hóa và các cơ sở triể n lãm, biể u diễ n; Nghệ 
thuậ t thủ công. (2) Nhóm các ngành công 
nghiệ p truyề n thông: Điệ n ả nh; Phát thanh 
và truyề n hình; Xuấ t bả n; Quả ng cáo; Công 
nghiệ p nộ i dung vă n hóa và âm nhạ c đạ i 
chúng. (3) Nhóm các ngành công nghiệ p 
thiế t kế : Thiế t kế kiế n trúc; Thiế t kế hình 
truyề n thông thị giác; Xây dự ng thư ơ ng 
hiệ u và thiế t kế thờ i trang; Thiế t kế sả n 
phẩ m; Cuộ c số ng sáng tạ o. (4) Nhóm công 
nghiệ p nộ i dung số : Công nghiệ p nộ i dung 
số (Phạm Hồng Thái và cộng sự, 2017: 36). 
Công nghiệp văn hóa 41
Trung Quốc đã sớm phân tách hoạ t 
độ ng vă n hóa thành “sự nghiệ p vă n hóa” và 
“công nghiệ p vă n hóa” (hay còn gọi là sả n 
nghiệ p vă n hóa). Theo đó, “sự nghiệ p vă n 
hóa” là nhữ ng hoạ t độ ng vă n hóa mang tính 
công ích, đả m bả o quyề n hư ở ng thụ vă n 
hóa củ a ngư ờ i dân, gắ n vớ i hệ thố ng dị ch 
vụ vă n hóa công cộ ng, còn “sản nghiệp văn 
hóa” là nhữ ng hoạ t độ ng mang tính kinh 
doanh gắ n vớ i các ngành nghề chị u sự chi 
phố i củ a thị trư ờ ng vă n hóa. Cơ cấu của 
sản nghiệp văn hóa ở Trung Quốc được thể 
hiện như sau: (1) Nhóm ngành nghề cố t lõi 
bao gồ m các ngành như : thông tin, xuấ t 
bả n, điệ n ả nh, truyề n hình, biể u diễ n nghệ 
thuậ t, vă n hóa quầ n chúng...; (2) Nhóm 
ngành nghề ngoạ i vi bao gồ m các ngành 
nghề mớ i nổ i như : mạ ng Internet, giả i trí, 
du lị ch vă n hóa, quả ng cáo, triể n lãm...; (3) 
Nhóm ngành nghề liên quan bao gồ m các 
ngành nghề sả n xuấ t và cung cấ p thiế t bị 
vă n hóa, các ngành dị ch vụ vă n hóa (Chử 
Bích Thu, 2015).
Có thể thấy, Trung Quố c vẫ n có quan 
điể m dè dặ t hơ n trong chính sách phát 
triển ngành CNVH, thể hiệ n qua việ c phân 
chia nhóm ngành nghề cố t lõi đư ợ c xác 
đị nh thuộ c sở hữ u nhà nư ớ c, do Nhà nư ớ c 
quả n lý và nhóm ngành nghề ngoạ i vi và 
ngành nghề liên quan thuộ c các chủ sở hữ u 
đa dạ ng hơ n. Điề u này cũ ng xuấ t phát từ 
sự phát triể n mang nhiề u nét đặ c thù củ a 
CNVH Trung Quố c trong bố i cả nh đờ i 
số ng tư tư ở ng - vă n hóa là lĩ nh vự c đư ợ c 
coi là còn nhiề u nhạ y cả m. 
Căn cứ vào cách tiếp cận của các quốc 
gia nêu trêu, có thể thấy CNVH là một khái 
niệm mở, và được nhìn nhận ở mỗi nước 
mỗi khác tùy vào đặc điểm và bối cảnh 
phát triển của từng nước. Có vẻ như một 
chiến lược chính sách tiếp cận theo hướng 
là ngành CNST sẽ tập trung chủ yếu vào 
giá trị kinh tế do ngành này tạo ra, trong 
đó nhấn mạnh vào sự sáng tạo cá nhân, sự 
đổi mới, những kỹ xảo, kỹ năng trong việc 
khám phá tính đa dạng của tri thức. Còn 
nếu ý tưởng về CNVH được thừa nhận, thì 
đặc tính văn hóa và các yếu tố truyền thống 
lại được nhấn mạnh hơn đặc tính sáng tạo. 
Đây là một thách thức lớn đặt ra đối với 
các nhà quản lý và hoạch định chính sách là 
làm thế nào để có một chính sách phát triển 
một ngành công nghiệp có thể cân bằng 
giữa hiệu quả kinh tế và giá trị văn hóa.
Nghiên cứu của Vũ Đức Thanh, Hoàng 
Khắc Lịch (2016) dẫn quan điểm của hai 
nhà nghiên cứu S. Galloway và S. Dunlop 
cho rằng, không thể nhầm lẫn, đánh đồng hai 
khái niệm “văn hóa” và “sáng tạo”, các sản 
phẩm văn hóa của ngành CNVH cần phải 
đặt mục tiêu truyền tải giá trị văn hóa, biểu 
trưng sâu sắc lên hàng đầu, trong khi các sản 
phẩm CNST lại thường hướng đến mục tiêu 
chính là giá trị kinh tế và lợi nhuận. Các tác 
giả cũng dẫn quan điểm của D. Thorby cho 
rằng, việc gộp chung, hoặc sử dụng hai khái 
niệm này một cách tương đương có thể dẫn 
đến những sai sót trong hoạch định, thực thi 
những chính sách phát triển CNVH.
Việc không thống nhất về khái niệm và 
khung phân loại đã gây nhiều bất cập cho 
việc thống kê các dữ liệu định lượng, khiến 
cho các con số thu thập được ở mỗi nước 
mỗi khác, không phản ánh đúng thực trạng 
của ngành công nghiệp này. Điều này đã gây 
nhiều trở ngại cho việc tư vấn chính sách 
của các tổ chức quốc tế cũng như việc hoạch 
định chính sách của các chính phủ. Năm 
2008, UNCTAD đã đi tiên phong trong việc 
đo lường thương mại văn hóa trên toàn cầu, 
từ góc độ ngành kinh tế sáng tạo. Mặc dù đã 
thiết lập được một tiêu chuẩn đánh giá nền 
kinh tế sáng tạo ở các nước, và mặc dù việc 
thu thập dữ liệu đã được thực hiện trên toàn 
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201942
thế giới, nhưng sự thiếu thống nhất trong 
việc xác định cơ cấu lĩnh vực CNVH hay 
CNST của các quốc gia cũng khiến cho việc 
thống kê có nhiều bất cập. 
Năm 2009, UNESCO đã đưa ra Khung 
thống kê văn hóa (FCS) - một công cụ để 
tổ chức sắp xếp số liệu thống kê ở cả cấp 
quốc gia và quốc tế, dựa trên một nền tảng 
khái niệm và sự hiểu biết văn hóa chung, 
cho phép đo lường một phạm vi rộng lớn 
các biểu đạt văn hóa không phân biệt thể chế 
kinh tế và xã hội tạo ra chúng. Thông qua 
các định nghĩa chuẩn, nó cho phép tạo ra dữ 
liệu so sánh mang tính quốc tế (UNESCO, 
2009). UNESCO cũng nhấn mạnh khung 
hành động mới sẽ giải quyết những tranh 
luận về vấn đề “văn hóa” và “sáng tạo” bằng 
cách đặt một số ngành sáng tạo đặc thù như 
thiết kế và quảng cáo thành một lĩnh vực văn 
hóa riêng biệt. Ngoài ra, khung văn hóa mới 
này cũng hướng tới tính linh hoạt và không 
bài trừ, nhưng vẫn thúc đẩy tính so sánh 
tương quan. Khung văn hóa cũng giúp các 
quốc gia có thể tự xây dựng khung thống kê 
văn hóa của riêng mình (UNESCO, 2009).
Mặc dù vậy, khung phân loại này của 
UNESCO vẫn được cho là cần phải có 
những thay đổi để phù hợp với xu hướng 
phát triển mới, không chỉ đơn thuần mang 
lại sự thuận tiện cho việc thống kê dữ liệu, 
mà còn xuất phát từ sự hiểu biết sâu sắc 
hơn về những thông tin cần thiết để xây 
dựng nên những tiêu chí đánh giá hiệu quả 
ngành CNVH (CNST) ở các quốc gia. 
III. Sự lựa chọn mô hình cho Việt Nam
Ở Việt Nam, năm 2014, lần đầu tiên 
cụm từ CNVH mới xuất hiện trong văn 
kiện của Đảng Cộng sản, đó là Nghị quyết 
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI. Theo đó, 
phát triển CNVH được Nghị quyết đặt ra 
là một trong năm mục tiêu phát triển trong 
giai đoạn mới của đất nước.
Trong Chiến lược phát triển các ngành 
CNVH Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 
đến năm 2030 được Chính phủ phê duyệt 
ngày 08/9/2016, CNVH được định nghĩa 
là: “các ngành sản xuất sản phẩm, dịch vụ 
văn hóa bằng phương thức sản xuất công 
nghiệp; phát triển dựa trên sự sáng tạo, 
khoa học, công nghệ và bản quyền trí tuệ; 
khai thác tối đa yếu tố kinh tế của các giá 
trị văn hóa”. Cơ cấu của CNVH Việt Nam 
gồm có: (1) Quảng cáo; (2) Kiến trúc; (3) 
Phần mềm và trò chơi giải trí; (4) Thủ công 
mỹ nghệ; (5) Thiết kế; (6) Điện ảnh; (7) 
Xuất bản; (8) Thời trang; (9) Nghệ thuật 
biểu diễn; (10) Mỹ thuật; (11) Nhiếp ảnh 
và Triển lãm; (12) Truyền hình và phát 
thanh; (13) Du lịch văn hóa (Thủ tướng 
Chính phủ, 2016). Cơ cấu ngành CNVH 
này đã bổ sung nhiều nhóm ngành thuộc 
lĩnh vực “sáng tạo” so với những đề xuất 
trước đây.
Thuật ngữ CNST chưa được thừa nhận 
trong các văn bản chính thức ở Việt Nam, 
nhưng nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã 
tiếp cận vấn đề này từ góc độ ngành CNST 
(với nhiều nghiên cứu cả định tính và định 
lượng, khẳng định cái gọi là “ngành CNST” 
ở Việt Nam là một ngành kinh tế tiềm năng 
nhất của đất nước hiện nay). 
Nhìn chung, việc tiếp cận một mô 
hình theo hướng ngành CNST đã trở thành 
xu hướng lựa chọn của nhiều quốc gia 
trên thế giới. Nghiên cứu của Phan Thế 
Công (2015) đã chỉ ra, phát triển kinh tế 
sáng tạo sẽ là một giải pháp hợp lý đối 
với kinh tế toàn cầu hiện nay. Kinh tế sáng 
tạo có thể góp phần thúc đẩy tăng trưởng 
và thịnh vượng, đặc biệt đối với các nước 
đang phát triển đang tìm cách đa dạng nền 
kinh tế. Nhìn ra thế giới, mức độ đóng 
góp của ngành CNST đã chiếm một tỷ lệ 
lớn trong GDP của nhiều nước và có xu 
Công nghiệp văn hóa 43
hướng tăng đều hằng năm. Chẳng hạn như 
ở Mỹ là hơn 11%; Australia là 10%; Hàn 
Quốc: 8,67%; Trung Quốc; 6,41%; Nga: 
6,06%;... Đã đến lúc nền kinh tế Việt Nam 
cần tiếp cận mạnh mẽ hơn và toàn diện 
hơn những luồng ý tưởng hàng đầu về xu 
thế đổi mới, sáng tạo trên thế giới, nhằm 
tìm kiếm một vị trí xứng đáng trong nền 
kinh tế sáng tạo toàn cầu.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hy (2013) 
từng đặt vấn đề: Phải nghiên cứu xác định 
rõ ràng, cụ thể mô hình của cái gọi là CNVH 
mà nước ta cần phát triển trong thời gian 
tới. Sẽ phát triển theo mô hình CNST ở Anh 
và một số nước trên thế giới đang làm, hay 
theo một mô hình khác do chính Việt Nam 
vạch ra cho phù hợp với tình hình thực tế 
của đất nước? Thêm nữa, có nên phát triển 
ngành CNVH với tính cách như một ngành 
văn hóa riêng, độc lập song song cùng với 
“các ngành sự nghiệp vốn có lâu nay của 
ngành văn hóa” hay không? (Nguyễn Văn 
Hy, 2013).
Căn cứ vào tình hình thế giới và bối cảnh 
Việt Nam, nghiên cứu của Lê Quốc Vinh đã 
đề xuất một Chiến lược phát triển CNVH ở 
Việt Nam, trên cơ sở bổ sung và mở rộng 
phạm vi thành Chiến lược phát triển CNST, 
tập trung hơn nữa vào các giải pháp phát 
triển giá trị gia tăng và thúc đẩy kinh doanh, 
thương mại đối với các sản phẩm sáng tạo 
và văn hóa. Ngoài ra, cần phải xác định rõ 
một cơ quan quản lý nhà nước về CNST. Và 
cơ quan này, nếu đặt trong Bộ Văn hóa, Thể 
thao và Du lịch, thì cũng cần bổ sung thêm 
các cơ quan có khả năng bao quát các ngành 
hiện không nằm trong phạm vi quản lý của 
Bộ, đồng thời cấu trúc lại nhiệm vụ để đặt 
vấn đề quản lý lấy kinh tế làm trung tâm (Lê 
Quốc Vinh, 2015).
Trên thực tế, khái niệm CNST đã được 
Hội đồng Anh đưa vào Việt Nam từ năm 
2008 thông qua sự kiện “Thành phố sáng 
tạo”, với mong muốn truyền tải những 
thông điệp mới và những kinh nghiệm về 
sự phát triển ngành công nghiệp này ở Việt 
Nam. Từ đó đến nay, Hội đồng Anh đã tổ 
chức nhiều hội thảo nhằm nâng cao nhận 
thức về ngành CNST, tiến hành nhiều dự 
án hỗ trợ cho các hoạt động của các tổ chức 
và cá nhân thực hành trong lĩnh vực nghệ 
thuật, văn hóa và sáng tạo. Chẳng hạn như 
việc hợp tác với Viện Văn hóa Nghệ thuật 
Quốc gia Việt Nam thực hiện Dự án Không 
gian văn hóa sáng tạo của Việt Nam. Dự 
án đã đưa ra được một khuôn khổ lý thuyết 
nhằm nâng cao nhận thức ở Việt Nam về 
cái gọi là không gian văn hóa sáng tạo - 
một trong những yếu tố quan trọng thúc 
đẩy sự phát triển của ngành CNST ở Việt 
Nam. Tháng 11/2018, Hội thảo “Vai trò 
của các không gian văn hóa sáng tạo trong 
nền kinh tế sáng tạo Việt Nam” nằm trong 
khuôn khổ dự án này đã được tổ chức nhằm 
giới thiệu mạng lưới các Không gian sáng 
tạo Văn hóa tại Việt Nam và tạo ra những 
đối thoại xoay quanh vai trò của mạng lưới 
này trong việc phát triển nền kinh tế sáng 
tạo của Việt Nam. 
Hội đồng Anh cũng là cơ quan hỗ trợ 
tư vấn chính cho Chiến lược phát triển các 
ngành CNVH Việt Nam đến năm 2020, 
tầm nhìn đến năm 2030. Bản tham vấn về 
chiến lược mà họ đưa ra được thúc đẩy bởi 
một tầm nhìn duy nhất: để Việt Nam trở 
thành một trung tâm lớn và nước dẫn đầu 
thị trường CNVH ở Đông Nam Á vào năm 
2020, là một nền kinh tế sáng tạo được thừa 
nhận trên toàn cầu vào năm 2030 (British 
Council, 2018).
Mới đây, Hội đồng Anh tại Việt Nam 
đã hợp tác cùng Đại học Leicester, Vương 
quốc Anh và Hanoi Grapevine triển khai 
công tác nghiên cứu và thu thập dữ liệu 
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201944
phục vụ việc thiết lập Danh bạ các ngành 
CNST của Việt Nam. Danh bạ sẽ được tạo 
ra dưới dạng một cổng thông tin điện tử, 
chia sẻ những thông tin cơ bản về các công 
ty, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức hoạt 
động trong mười bốn lĩnh vực thuộc các 
ngành CNST được lựa chọn dựa theo định 
nghĩa của Vương quốc Anh và bối cảnh 
Việt Nam. Ngoài ra, cổng thông tin cũng 
có những đánh giá về mức độ đóng góp vào 
nền kinh tế và tiềm năng tăng trưởng của 
ngành này ở Việt Nam. 
Một động thái mới nhất của Việt Nam 
nhằm hội nhập vào nền kinh tế sáng tạo 
toàn cầu là việc tháng 6/2019 thành phố Hà 
Nội đã nộp hồ sơ ứng cử vào Mạng lưới các 
thành phố sáng tạo của UNESCO về lĩnh 
vực thiết kế. Và ngày 30/10/2019 vừa qua, 
Hà Nội đã chính thức được UNESCO ghi 
danh vào Mạng lưới này.
Kết luận
CNVH hay CNST không hẳn chỉ là vấn 
đề tên gọi, mà là hàm ý mục tiêu chính sách 
phát triển ngành công nghiệp này của mỗi 
quốc gia. Trong bối cảnh mà ngành CNVH 
ở Việt Nam mới được định hình, vẫn đang 
dò dẫm những bước đi đầu tiên, thì cách 
tiếp cận như hiện nay có thể là phù hợp. 
Nhưng trong tương lai sẽ cần phải hướng 
đến một cách tiếp cận nhất quán và rõ ràng 
hơn nhằm xây dựng được một mô hình 
không chỉ phù hợp với bối cảnh Việt Nam, 
mà còn phải bắt kịp được với xu thế phát 
triển chung của thế giới 
Tài liệu tham khảo
1. British Council (2018), Tài liệu hội 
thảo: Vai trò của các Không gian Văn 
hóa Sáng tạo trong nền Kinh tế Sáng tạo 
Việt Nam, https://www.britishcouncil.
vn/sites/default/files/tai-lieu-hoi-thao-
khong-gian-van-hoa-sang-tao-2018.pdf
2. Phan Thế Công (2015), “Phát triển 
các ngành công nghiệp sáng tạo ở Việt 
Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”, 
Tạp chí Khoa học và Xã hội Việt Nam, 
số 1 (86).
3. Phạm Bích Huyền, Đặng Hoài Thu 
(2014), Giáo trình Các ngành công 
nghiệp văn hóa, Nxb. Lao động, 
Hà Nội.
4. Nguyễn Văn Hy (2013), “Tìm hiểu 
thêm về công nghiệp sáng tạo và công 
nghiệp văn hóa”, Tạp chí Nghiên cứu 
Văn hoá, số 3.
5. Phạm Hồng Thái và cộng sự (2017), Sự 
phát triển của công nghiệp văn hóa ở 
các nước Đông Bắc Á và tác động đến 
Việt Nam, Đề tài V1.2-2012.12, Viện 
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
6. Vũ Đức Thanh, Hoàng Khắc Lịch 
(2016), “Công nghiệp văn hóa”, Tạp 
chí Lý luận chính trị, số 7.
7. Chử Bích Thu (2015), “Chính sách phát 
triển công nghiệp văn hóa của Trung 
Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Trung 
Quốc, số 10 (170).
8. Trần Thị Thủy (2019), “Ngành công 
nghiệp văn hóa và sáng tạo Đài Loan: 
khái niệm và vai trò”, Tạp chí Nghiên 
cứu Trung Quốc, số 1 (209).
9. UNESCO (2007), Statistics on 
cultural industries: Framework for the 
Elaboration of National Data Capacity 
Building Projects, 
org/culture/en/ev
10. UNESCO (2009), Khung thống kê văn 
hóa UNESCO 2009, 
org/new/fileadmin/MULTIMEDIA/
FIELD/Hanoi / images/Final%20
FCS%2Vietnamese.pdf
11. UNCTAD (2010), Creative economy 
report 2010, https://unctad.org/en/
Docs/ditctab20103_en.pdf

File đính kèm:

  • pdfcong_nghiep_van_hoa_cong_nghiep_sang_tao_va_su_lua_chon_mo_h.pdf