Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp
Việc xác lập rộng rãi và thực hiện công
bằng xã hội là một trong những nhân tố quan
trọng đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử
nhất định. Vấn đề công bằng luôn được coi
là một mục tiêu để hướng tới, để hoàn thiện.
Thực hiện chiến lược con người là một quá
trình đồng bộ, toàn diện và lâu dài trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó
giáo dục có vị trí hết sức quan trọng trong
sự nghiệp đổi mới. Với ý nghĩa đó, Đảng ta
khẳng định: “giáo dục nhằm mục tiêu hình
thành và phát triển toàn diện nhân cách xã
hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ
lao động có kỹ thuật, đồng bộ về ngành nghề,
phù hợp với yêu cầu phân công lao động xã
hội, đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục,
đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là
quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con
người, động lực trực tiếp của sự phát triển” [1].
Giáo dục không ngừng nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nguồn nhân lực và nhân tài cho
đất nước phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế
- xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ trọng đại đó,
góp phần đổi mới giáo dục một cách đồng
bộ, cần thực hiện tốt hơn nữa công bằng xã
hội trong giáo dục. Trên cơ sở nghiên cứu và
khảo sát giáo dục phổ thông, bài viết đề xuất
một số giải pháp để góp phần thực hiện tốt
hơn nữa công bằng xã hội trong giáo dục phổ
thông ở Việt Nam hiện nay.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp
42 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Đỗ Thị Thu Hương và Chu Thị Diễm Hương *Email: huongchinhtri@gmail.com TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG Tập 23, Số 2 (2021): 42-52 JOURNAL OF SCIENCE AND TECHNOLOGY HUNG VUONG UNIVERSITY Vol. 23, No. 2 (2021): 42-52 Email: tapchikhoahoc@hvu.edu.vn Website: www.hvu.edu.vn CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP Đỗ Thị Thu Hương1*, Chu Thị Diễm Hương2 1Khoa Chính trị và Tâm lý giáo dục, Trường Đại học Hùng Vương, Phú Thọ 2Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang Ngày nhận bài: 26/7/2020; Ngày chỉnh sửa: 10/9/2020; Ngày duyệt đăng: 18/9/2020 Tóm tắt Công bằng xã hội trong giáo dục là tạo cơ hội học tập như nhau và phù hợp cho tất cả mọi người trong tiếp cận, tham gia vào quá trình giáo dục tại các cơ sở giáo dục trên cơ sở những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, việc thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận nhưng cũng tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém cần phải khắc phục. Bài viết trình bày quan điểm về công bằng xã hội trong giáo dục, trên cơ sở tìm hiểu thực trạng thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần thực hiện tốt hơn nữa công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông. Từ khóa: Công bằng xã hội, công bằng xã hội trong giáo dục. 1. Đặt vấn đề Việc xác lập rộng rãi và thực hiện công bằng xã hội là một trong những nhân tố quan trọng đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử nhất định. Vấn đề công bằng luôn được coi là một mục tiêu để hướng tới, để hoàn thiện. Thực hiện chiến lược con người là một quá trình đồng bộ, toàn diện và lâu dài trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó giáo dục có vị trí hết sức quan trọng trong sự nghiệp đổi mới. Với ý nghĩa đó, Đảng ta khẳng định: “giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật, đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động xã hội, đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người, động lực trực tiếp của sự phát triển” [1]. Giáo dục không ngừng nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và nhân tài cho đất nước phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ trọng đại đó, góp phần đổi mới giáo dục một cách đồng bộ, cần thực hiện tốt hơn nữa công bằng xã hội trong giáo dục. Trên cơ sở nghiên cứu và khảo sát giáo dục phổ thông, bài viết đề xuất một số giải pháp để góp phần thực hiện tốt hơn nữa công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay. 2. Cơ sở lý luận 2.1. Một số quan điểm về công bằng xã hội và công bằng xã hội trong giáo dục Từ trước đến nay, bằng nhiều cách tiếp cận và quan niệm, hầu hết các quốc gia trên thế 43 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 23, Số 2 (2021): 42-52 giới đều bàn đến công bằng xã hội và thể chế hóa bằng luật pháp và các văn bản dưới luật về công bằng xã hội. Nhận thức về công bằng xã hội đã trải qua những giai đoạn phát triển nhất định. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, quan niệm về sự công bằng nói chung trùng với những quan niệm sơ khai về sự bình đẳng của mọi thành viên trong xã hội. Với sự xuất hiện của xã hội có giai cấp, quan niệm về công bằng xã hội trở nên bị chế định về mặt giai cấp. Công bằng được coi như sự cần thiết phải tuân theo những tập quán được quy định mà mọi người thừa nhận, dần dần công bằng xã hội được giải thích như một cái gì đó tất yếu phát sinh từ sự sắp xếp của vũ trụ, từ “trật tự tự nhiên”. Có quan điểm cho rằng công bằng xã hội có tính khách quan, chỉ được nhận thức ở những người “thông minh” đặc biệt, còn đối với người không nhận thức được tính công bằng và cho rằng công bằng khó mà đạt được đối với đại đa số người. Bước tiến xa hơn là quan điểm công bằng coi như là một hình thái đặc biệt có bản chất xã hội. Các xã hội sau đó xem xét vấn đề công bằng trên bình diện đạo đức (Hy Lạp), hoặc thiên về khía cạnh pháp luật (La Mã). Các nhà tư tưởng, nhà lý luận của giai cấp tư sản thế kỷ XVIII - XIX cho rằng công bằng phải dựa trên việc thừa nhận tự do cá nhân, bác bỏ hệ thống đẳng cấp phong kiến nhưng ra sức bảo vệ quyền lợi của chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa. Đến khi chủ nghĩa Mác xuất hiện, phạm trù công bằng xã hội có nội dung khoa học thực sự. Công bằng không phải là sự cào bằng, bình quân chủ nghĩa. Công bằng xã hội thực chất là sự ngang nhau giữa người với người về một phương diện hoàn toàn xác định: quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ. C. Mác chỉ rõ “bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng chỉ là hậu quả của sự ph ... tư vào giáo án giảng dạy còn chưa đúng mức, cơ sở vật chất... ) các loại trường học giữa các địa phương. Đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, khoảng cách từ nơi ở đến trường học còn xa, cơ sở vật chất và nguồn nhân lực giáo dục ở các trường học tại nơi này còn rất thiếu [7]. Bốn là, những hiện tượng tiêu cực xuất hiện trong giáo dục ngày càng nhiều đã dẫn đến sự thiếu công bằng giữa các tầng lớp nhân dân ở các vùng miền khác nhau trong phạm vi cả nước: Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, tình trạng dạy thêm, học thêm chủ yếu xảy ra ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và một số thành phố, thị xã, thị trấn của các tỉnh, thành khu vực đồng bằng. Việc dạy thêm, học thêm sẽ không sai nếu như đáp ứng được nhu cầu của người học và tổ chức dạy thêm theo đúng quy định. Nhưng thực tế, đã có nhiều giáo viên lợi dụng việc dạy thêm và buộc học sinh phải đi học thêm để thu tiền. Cá biệt có nơi, việc tổ chức dạy thêm, học thêm trở thành một phong trào. Còn hiện tượng tiêu cực trong tuyển sinh đầu cấp có thể xảy ra ở tất cả cấp học, trong các kỳ thi 49 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 23, Số 2 (2021): 42-52 THPT quốc gia tại các tỉnh Hòa Bình, Hà Giang, Sơn La... khi thí sinh không đủ điều kiện trúng tuyển vào các trường, đã tìm mọi cách để được lọt qua cánh cổng trường, dẫn tới gian lận về hồ sơ tuyển sinh hoặc tiêu cực trong coi thi, chấm thi. Ngoài ra, còn có tiêu cực trong tuyển sinh trái tuyến, “chạy” vào các trường điểm, gian lận về các điều kiện xét tuyển. Thực trạng thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục ở nước ta đã cho thấy một số nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, yếu kém trong giáo dục như sau: Nguyên nhân khách quan là do điều kiện địa lý, tự nhiên, phương tiện giao lưu khó khăn tại một số vùng miền đã tác động lớn đến quá trình phát triển giáo dục và thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Bên cạnh đó, khó khăn về ngôn ngữ giao tiếp, sự tồn tại của những tập tục lạc hậu ở một số vùng miền đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số đã tác động đến điều kiện, cơ hội học tập của nhân dân. Thực tế, tư tưởng trọng nam khinh nữ ở một số tộc người (người Chăm, người Dao..) hay cách phân công lao động theo giới, phong tục tảo hôn ở các dân tộc H’Mông, Dao, Ra Glai là nguyên nhân cản trở nhiều nhất đến việc tiếp cận giáo dục của trẻ em gái. Tập quán kết hôn sớm và nhu cầu sinh con, làm mẹ ở người Cơ-tu đã ảnh hưởng đến khả năng theo học của học sinh nữ. Mặc dù trẻ em gái người Cơ-tu vẫn muốn được đi học, song vẫn muốn hoàn thành nhiệm vụ là một người phụ nữ của gia đình nên tập quán này dẫn đến sự báo động nghiêm trọng đối với chất lượng học tập và sức khỏe sinh sản của học sinh nữ cấp 3 [7]. Ngoài ra, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng miền còn có sự chênh lệch lớn, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa với điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn đã tác động hạn chế đến thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Nguyên nhân chủ quan là do nhận thức của cán bộ và nhân dân còn chưa đầy đủ về vị trí, vai trò của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân. Hệ thống giáo dục còn thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển giáo dục cho nhân dân. Bên cạnh đó, công tác quản lý giáo dục có nhiều hạn chế, yếu kém và bất cập, chưa phù hợp với yêu cầu phát triển giáo dục của nhân dân. Mặt khác, chế độ đãi ngộ, tiền lương và phụ cấp chưa thỏa đáng đối với đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhất là đội ngũ cán bộ, giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và hải đảo. Vì vậy, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục ở nước ta cần phải phát huy được những thành tựu và từng bước khắc phục được những hạn chế nên trên. 5. Một số giải pháp chủ yếu góp phần thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng và chính quyền từ Trung ương đến địa phương, nhận thức của đội ngũ cán bộ, giáo viên trong ngành giáo dục và nhân dân về vai trò của giáo dục và thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống cho nhân dân. Đảng và Nhà nước phải thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Giáo dục cùng với khoa học công nghệ là nhân tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. Thực hiện chính sách đầu tư, ưu đãi đối với giáo dục, đặc biệt là chính sách đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và chính sách tiền lương cho đội ngũ cán bộ, giáo viên. Để nâng cao nhận thức đúng đắn, đầy đủ cho 50 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Đỗ Thị Thu Hương và Chu Thị Diễm Hương cán bộ, đảng viên trong cơ quan của Đảng và Nhà nước về vai trò của việc thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục cần phải tổ chức học tập cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và đưa nội dung phát triển giáo dục vào sinh hoạt đảng, sinh hoạt chuyên môn của các cơ quan Đảng và Nhà nước. Đồng thời, các cơ quan Đảng và Nhà nước phải đưa ra các chính sách, kế hoạch và chiến lược phát triển giáo dục phù hợp với từng vùng, miền, dân tộc để tạo cơ hội học tập đầy đủ, phù hợp cho nhân dân lĩnh hội tri thức và nâng cao trình độ. Bên cạnh đó, cán bộ, giáo viên cần phát huy truyền thống, đạo đức của ngành giáo dục và đức hy sinh để phát triển giáo dục, tạo ra nhiều sáng kiến, hình thức giáo dục phù hợp nhất với các tầng lớp nhân dân để nâng cao trình độ dân trí, tạo ra nhiều điều kiện học tập cho nhân dân nhằm thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Thứ hai, Đảng và Nhà nước cần có chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo bền vững là điều kiện quan trọng để thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về vốn, kỹ thuật cho nhân dân phát triển kinh tế. Các cơ quan Nhà nước và chính quyền địa phương cần tăng cường cán bộ khoa học kỹ thuật đến từng vùng cụ thể, không “chỉ đạo từ xa”, phải đảm bảo chính sách toàn diện và đồng bộ. Nhà nước và chính quyền địa phương cần có sự lồng ghép nội dung phát triển kinh tế - xã hội, hướng dẫn nghề nghiệp... cho nhân dân trong nội dung chương trình giáo dục tại các vùng miền cụ thể. Nhà trường cần kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ học tập với lao động sản xuất cho học sinh, phải gắn nội dung chương trình giáo dục với thực tiễn đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của từng dân tộc, từng vùng miền để nhân dân có thể tự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, có điều kiện để học tập, nâng cao trình độ dân trí, góp phần thực hiện tốt công bằng xã hội trong giáo dục. Đảng và Nhà nước cần phải có một hệ thống chính sách phát triển kinh tế - xã hội đồng bộ dành riêng cho các vùng dân tộc thiểu số, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa... để nâng cao mức sống, điều kiện sống cho đồng bào có cơ hội được học tập, nâng cao trình độ dân trí nhằm đạt đến trình độ giáo dục chung của cả nước là xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở những vùng này. Nhà nước và chính quyền địa phương cần đầu tư phát triển hệ thống giao thông, điện lưới, cơ sở trường lớp, trạm y tế đến từng thôn bản... và tạo điều kiện khuyến khích nhân dân các dân tộc phát triển ngành nghề truyền thống, khai thác được tối đa các thế mạnh của đồng bào vào phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo cho đồng bào có cơ hội học tập. Thứ ba, Đảng và Nhà nước cần có chính sách ưu tiên trong giáo dục cụ thể cho từng vùng miền, cho đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn về cơ sở trường lớp, phương tiện thông tin, sách vở và phương tiện dạy học để phục vụ giảng dạy... Nhà nước có chính sách ưu tiên về tiền lương, phụ cấp, nhà ở, chế độ nghỉ ngơi đối với cán bộ, giáo viên đến công tác ở vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn bằng ngân sách của tỉnh và sự hỗ trợ của Nhà nước. Bên cạnh đó, cần đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học, đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục phù hợp với văn hóa, phong tục tập quán và điều kiện của từng dân tộc và từng vùng dân tộc. Ngoài ra, đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số cần xây dựng đội ngũ quản lý giáo dục và giáo viên là người dân tộc thiểu số để tự bản thân mỗi dân tộc chủ động tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục. 51 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 23, Số 2 (2021): 42-52 Thứ tư, việc tổ chức thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Do đó, Đảng và Nhà nước cần có chính sách ngắn hạn và dài hạn để phát triển giáo dục và thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục ở các vùng miền trên phạm vi cả nước nhằm tạo cơ sở cho các địa phương thực hiện. Hiện nay, chính sách giáo dục ngắn hạn của Đảng và Nhà nước cần đề ra đối với vùng dân tộc thiểu số của nước ta là phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở và tiến tới phổ cập giáo dục trung học phổ thông. Chính sách mang tính chiến lược lâu dài cho vùng dân tộc thiểu số là tạo điều kiện, cơ hội học tập phù hợp cho đồng bào nâng cao trình độ tri thức, tay nghề và thực hiện quyền bình đẳng dân tộc so với các dân tộc khác ở Việt Nam, trên cơ sở tự làm chủ về kinh tế, văn hóa, giáo dục của dân tộc mình, không còn phụ thuộc quá lớn vào sự trợ giúp của Nhà nước và các dân tộc khác. Thông qua đó, các cấp ủy đảng và chính quyền ở địa phương cần vận dụng và đưa ra kế hoạch phát triển giáo dục cho từng địa phương phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm chính trị, văn hóa của từng vùng. Các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương phải thực hiện nghiêm minh, bám sát thực tế phát triển kinh tế - xã hội, trình độ dân trí của nhân dân, tránh tình trạng quan liêu, chủ quan, duy ý chí và không quan tâm đến nhân dân ở những vùng khó khăn, vùng sâu, xa... Đồng thời, cần huy động toàn dân vào thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục trên cơ sở tôn trọng truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của từng tộc người. Các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương phải có kế hoạch vận động nhân dân tham gia vào sự nghiệp phát triển giáo dục cho bản thân mình bằng cách đóng góp sức người, sức của, sáng kiến về các hình thức giáo dục. Chính quyền địa phương phải chủ động phát huy truyền thống hiếu học, tương thân tương ái, tự lực, tự cường của nhân dân để phát triển giáo dục góp phần thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, không thụ động, trông chờ vào sự hỗ trợ, giúp đỡ của Đảng và Nhà nước. Tóm lại, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để khắc phục hạn chế và phát huy thành quả đã đạt được khi phát triển giáo dục và thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, Đảng và Nhà nước ta cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau: Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; nâng cao nhận thức của cán bộ ở chính quyền địa phương và nhân dân để họ hiểu được vai trò của sự nghiệp phát triển giáo dục cũng như thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trường lớp ở từng địa phương và phát huy nội lực trong nhân dân. 6. Kết luận Trong những năm qua, công tác tăng cường khả năng tiếp cận giáo dục cho nhân dân đã đạt được những thành tựu và kết quả đáng ghi nhận. Đã có một bước nhảy vọt về thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm dân tộc, giữa các vùng miền, giữa em trai và em gái... Quy mô giáo dục được mở rộng; hệ thống trường lớp phát triển mạnh từng bước đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Vấn đề công bằng xã hội trong giáo dục được quan tâm và đã có những chủ trương, chính sách thiết thực, cụ thể nhằm giải quyết vấn đề công bằng xã hội trong giáo dục nói chung, những người nghèo và đối tượng chính sách nói riêng. Việc thực hiện các chủ trương, chính sách đó đã mang lại quyền và cơ hội học tập cho nhân dân. Trước hết đã đảm bảo cho đại bộ phận nhân dân trong độ tuổi đã được học tập đạt trình độ xóa mù chữ và phổ cập tiểu học, từng bước phổ cập trung học cơ 52 TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Đỗ Thị Thu Hương và Chu Thị Diễm Hương sở. Ðồng thời đã tạo cơ hội và những điều kiện cơ bản để học tập đạt được trình độ trên mức phổ cập cho mọi người, trong đó đã chú trọng tới các khu vực đặc biệt khó khăn, các đối tượng là người dân tộc thiểu số, người nghèo và đối tượng chính sách xã hội. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã có những quan điểm nhất định về công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông và đưa ra một số giải pháp để góp phần đáp ứng nhu cầu tiếp cận bình đẳng của học sinh trong giáo dục trong những năm tiếp theo. Tài liệu tham khảo [1] Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam (2015). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Truy cập ngày 03/02/2020, từ < chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/ lan-thu-xi/chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa- hoi-2011-2020-1527>. [2] C. Mác - Ăngghen (1995). Toàn tập (tập 19). Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 36-37. [3] C. Mác - Ăngghen - V. I. Lênin (1984). Bàn về giáo dục. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội,. [4] Luật Giáo dục và các văn bản hướng dẫn thi hành (2006). Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội. [5] Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10. [6] Bộ Giáo dục và Đào tạo - UNICEF - Viện Thống kê UNESCO (2017). Báo cáo Trẻ em ngoài nhà trường: Nghiên cứu của Việt Nam 2016, Hà Nội. [7] Phan Thị Lan & Nguyễn Thị Thanh Xuyên (2015). Tìm hiểu về vấn đề bất bình đẳng giới trong việc tiếp cận giáo dục bậc trung học phổ thông đối với học sinh dân tộc Cơ-tu ở Tây Giang, Quảng Nam, Việt Nam. Tạp chí Khoa học xã hội miền Trung, 4, 77-86. SOCIAL JUSTICE IN GENERAL EDUCATION IN VIETNAM TODAY: VIEWPOINTS AND SOLUTIONS Do Thi Thu Huong1, Chu Thi Diem Huong2 1Faculty of Political Education and Educational Psychology, Hung Vuong University, Phu Tho 2Political School of Tuyen Quang, Tuyen Quang Abstract Social justice in education is to create the equal studying opportunity and suitable environment for all people in approaching and participating in the educational process at educational institutions on the basis of social and economic conditions. In Vietnam, under the leadership of the Party and the State management during recent years, the implementation of social justice in education has been attaining remarkable achievements but still remaining many limitations and weaknesses need to be overcome. This article presents specific perspectives in social justice in education, based on researching the current implementation situation of social justice in education, the authors propose a number of major solutions to contribute the implementation of mentioned subject. Keywords: Social justice, social justice in education.
File đính kèm:
- cong_bang_xa_hoi_trong_giao_duc_pho_thong_o_viet_nam_hien_na.pdf