Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp

Việc xác lập rộng rãi và thực hiện công

bằng xã hội là một trong những nhân tố quan

trọng đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội

của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử

nhất định. Vấn đề công bằng luôn được coi

là một mục tiêu để hướng tới, để hoàn thiện.

Thực hiện chiến lược con người là một quá

trình đồng bộ, toàn diện và lâu dài trong tất

cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó

giáo dục có vị trí hết sức quan trọng trong

sự nghiệp đổi mới. Với ý nghĩa đó, Đảng ta

khẳng định: “giáo dục nhằm mục tiêu hình

thành và phát triển toàn diện nhân cách xã

hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ

lao động có kỹ thuật, đồng bộ về ngành nghề,

phù hợp với yêu cầu phân công lao động xã

hội, đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục,

đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là

quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con

người, động lực trực tiếp của sự phát triển” [1].

Giáo dục không ngừng nhằm nâng cao dân

trí, đào tạo nguồn nhân lực và nhân tài cho

đất nước phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế

- xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ trọng đại đó,

góp phần đổi mới giáo dục một cách đồng

bộ, cần thực hiện tốt hơn nữa công bằng xã

hội trong giáo dục. Trên cơ sở nghiên cứu và

khảo sát giáo dục phổ thông, bài viết đề xuất

một số giải pháp để góp phần thực hiện tốt

hơn nữa công bằng xã hội trong giáo dục phổ

thông ở Việt Nam hiện nay.

Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp trang 1

Trang 1

Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp trang 2

Trang 2

Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp trang 3

Trang 3

Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp trang 4

Trang 4

Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp trang 5

Trang 5

Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp trang 6

Trang 6

Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp trang 7

Trang 7

Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp trang 8

Trang 8

Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp trang 9

Trang 9

Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang baonam 8840
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp

Công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay: Quan điểm và giải pháp
42
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Đỗ Thị Thu Hương và Chu Thị Diễm Hương
*Email: huongchinhtri@gmail.com
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
Tập 23, Số 2 (2021): 42-52
JOURNAL OF SCIENCE AND TECHNOLOGY
HUNG VUONG UNIVERSITY
Vol. 23, No. 2 (2021): 42-52
Email: tapchikhoahoc@hvu.edu.vn Website: www.hvu.edu.vn
CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP
Đỗ Thị Thu Hương1*, Chu Thị Diễm Hương2
1Khoa Chính trị và Tâm lý giáo dục, Trường Đại học Hùng Vương, Phú Thọ 
2Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang
Ngày nhận bài: 26/7/2020; Ngày chỉnh sửa: 10/9/2020; Ngày duyệt đăng: 18/9/2020
Tóm tắt
Công bằng xã hội trong giáo dục là tạo cơ hội học tập như nhau và phù hợp cho tất cả mọi người trong tiếp cận, tham gia vào quá trình giáo dục tại các cơ sở giáo dục trên cơ sở những điều kiện kinh tế - xã hội nhất 
định. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, việc thực 
hiện công bằng xã hội trong giáo dục đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận nhưng cũng tồn tại nhiều hạn 
chế, yếu kém cần phải khắc phục. Bài viết trình bày quan điểm về công bằng xã hội trong giáo dục, trên cơ sở 
tìm hiểu thực trạng thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một 
số giải pháp chủ yếu góp phần thực hiện tốt hơn nữa công bằng xã hội trong giáo dục phổ thông.
Từ khóa: Công bằng xã hội, công bằng xã hội trong giáo dục.
1. Đặt vấn đề
Việc xác lập rộng rãi và thực hiện công 
bằng xã hội là một trong những nhân tố quan 
trọng đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội 
của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ lịch sử 
nhất định. Vấn đề công bằng luôn được coi 
là một mục tiêu để hướng tới, để hoàn thiện. 
Thực hiện chiến lược con người là một quá 
trình đồng bộ, toàn diện và lâu dài trong tất 
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó 
giáo dục có vị trí hết sức quan trọng trong 
sự nghiệp đổi mới. Với ý nghĩa đó, Đảng ta 
khẳng định: “giáo dục nhằm mục tiêu hình 
thành và phát triển toàn diện nhân cách xã 
hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ 
lao động có kỹ thuật, đồng bộ về ngành nghề, 
phù hợp với yêu cầu phân công lao động xã 
hội, đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, 
đào tạo, khoa học và công nghệ, coi đó là 
quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con 
người, động lực trực tiếp của sự phát triển” [1]. 
Giáo dục không ngừng nhằm nâng cao dân 
trí, đào tạo nguồn nhân lực và nhân tài cho 
đất nước phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế 
- xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ trọng đại đó, 
góp phần đổi mới giáo dục một cách đồng 
bộ, cần thực hiện tốt hơn nữa công bằng xã 
hội trong giáo dục. Trên cơ sở nghiên cứu và 
khảo sát giáo dục phổ thông, bài viết đề xuất 
một số giải pháp để góp phần thực hiện tốt 
hơn nữa công bằng xã hội trong giáo dục phổ 
thông ở Việt Nam hiện nay.
2. Cơ sở lý luận
2.1. Một số quan điểm về công bằng xã hội 
và công bằng xã hội trong giáo dục
Từ trước đến nay, bằng nhiều cách tiếp cận 
và quan niệm, hầu hết các quốc gia trên thế 
43
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 23, Số 2 (2021): 42-52
giới đều bàn đến công bằng xã hội và thể chế 
hóa bằng luật pháp và các văn bản dưới luật 
về công bằng xã hội. Nhận thức về công bằng 
xã hội đã trải qua những giai đoạn phát triển 
nhất định. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, 
quan niệm về sự công bằng nói chung trùng với 
những quan niệm sơ khai về sự bình đẳng của 
mọi thành viên trong xã hội. Với sự xuất hiện 
của xã hội có giai cấp, quan niệm về công bằng 
xã hội trở nên bị chế định về mặt giai cấp. Công 
bằng được coi như sự cần thiết phải tuân theo 
những tập quán được quy định mà mọi người 
thừa nhận, dần dần công bằng xã hội được 
giải thích như một cái gì đó tất yếu phát sinh 
từ sự sắp xếp của vũ trụ, từ “trật tự tự nhiên”. 
Có quan điểm cho rằng công bằng xã hội có 
tính khách quan, chỉ được nhận thức ở những 
người “thông minh” đặc biệt, còn đối với người 
không nhận thức được tính công bằng và cho 
rằng công bằng khó mà đạt được đối với đại 
đa số người. Bước tiến xa hơn là quan điểm 
công bằng coi như là một hình thái đặc biệt 
có bản chất xã hội. Các xã hội sau đó xem xét 
vấn đề công bằng trên bình diện đạo đức (Hy 
Lạp), hoặc thiên về khía cạnh pháp luật (La 
Mã). Các nhà tư tưởng, nhà lý luận của giai 
cấp tư sản thế kỷ XVIII - XIX cho rằng công 
bằng phải dựa trên việc thừa nhận tự do cá 
nhân, bác bỏ hệ thống đẳng cấp phong kiến 
nhưng ra sức bảo vệ quyền lợi của chế độ tư 
hữu tư bản chủ nghĩa.
Đến khi chủ nghĩa Mác xuất hiện, phạm 
trù công bằng xã hội có nội dung khoa học 
thực sự. Công bằng không phải là sự cào 
bằng, bình quân chủ nghĩa. Công bằng xã 
hội thực chất là sự ngang nhau giữa người 
với người về một phương diện hoàn toàn xác 
định: quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, 
giữa cống hiến và hưởng thụ. C. Mác chỉ rõ 
“bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu 
dùng cũng chỉ là hậu quả của sự ph ... 
tư vào giáo án giảng dạy còn chưa đúng mức, 
cơ sở vật chất... ) các loại trường học giữa 
các địa phương. Đặc biệt là ở vùng sâu, vùng 
xa, vùng dân tộc thiểu số, khoảng cách từ nơi 
ở đến trường học còn xa, cơ sở vật chất và 
nguồn nhân lực giáo dục ở các trường học tại 
nơi này còn rất thiếu [7].
Bốn là, những hiện tượng tiêu cực xuất 
hiện trong giáo dục ngày càng nhiều đã dẫn 
đến sự thiếu công bằng giữa các tầng lớp 
nhân dân ở các vùng miền khác nhau trong 
phạm vi cả nước:
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, tình trạng 
dạy thêm, học thêm chủ yếu xảy ra ở các 
thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh 
và một số thành phố, thị xã, thị trấn của các 
tỉnh, thành khu vực đồng bằng. Việc dạy 
thêm, học thêm sẽ không sai nếu như đáp 
ứng được nhu cầu của người học và tổ chức 
dạy thêm theo đúng quy định. Nhưng thực tế, 
đã có nhiều giáo viên lợi dụng việc dạy thêm 
và buộc học sinh phải đi học thêm để thu 
tiền. Cá biệt có nơi, việc tổ chức dạy thêm, 
học thêm trở thành một phong trào. Còn hiện 
tượng tiêu cực trong tuyển sinh đầu cấp có 
thể xảy ra ở tất cả cấp học, trong các kỳ thi 
49
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 23, Số 2 (2021): 42-52
THPT quốc gia tại các tỉnh Hòa Bình, Hà 
Giang, Sơn La... khi thí sinh không đủ điều 
kiện trúng tuyển vào các trường, đã tìm mọi 
cách để được lọt qua cánh cổng trường, dẫn 
tới gian lận về hồ sơ tuyển sinh hoặc tiêu cực 
trong coi thi, chấm thi. Ngoài ra, còn có tiêu 
cực trong tuyển sinh trái tuyến, “chạy” vào 
các trường điểm, gian lận về các điều kiện 
xét tuyển.
Thực trạng thực hiện công bằng xã hội 
trong giáo dục ở nước ta đã cho thấy một số 
nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, yếu 
kém trong giáo dục như sau:
Nguyên nhân khách quan là do điều kiện 
địa lý, tự nhiên, phương tiện giao lưu khó 
khăn tại một số vùng miền đã tác động lớn 
đến quá trình phát triển giáo dục và thực hiện 
công bằng xã hội trong giáo dục. Bên cạnh 
đó, khó khăn về ngôn ngữ giao tiếp, sự tồn 
tại của những tập tục lạc hậu ở một số vùng 
miền đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số đã tác 
động đến điều kiện, cơ hội học tập của nhân 
dân. Thực tế, tư tưởng trọng nam khinh nữ ở 
một số tộc người (người Chăm, người Dao..) 
hay cách phân công lao động theo giới, 
phong tục tảo hôn ở các dân tộc H’Mông, 
Dao, Ra Glai là nguyên nhân cản trở nhiều 
nhất đến việc tiếp cận giáo dục của trẻ em 
gái. Tập quán kết hôn sớm và nhu cầu sinh 
con, làm mẹ ở người Cơ-tu đã ảnh hưởng đến 
khả năng theo học của học sinh nữ. Mặc dù 
trẻ em gái người Cơ-tu vẫn muốn được đi 
học, song vẫn muốn hoàn thành nhiệm vụ là 
một người phụ nữ của gia đình nên tập quán 
này dẫn đến sự báo động nghiêm trọng đối 
với chất lượng học tập và sức khỏe sinh sản 
của học sinh nữ cấp 3 [7]. Ngoài ra, điều kiện 
phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng miền 
còn có sự chênh lệch lớn, đặc biệt là ở vùng 
sâu, vùng xa với điều kiện kinh tế - xã hội 
khó khăn đã tác động hạn chế đến thực hiện 
công bằng xã hội trong giáo dục.
Nguyên nhân chủ quan là do nhận thức 
của cán bộ và nhân dân còn chưa đầy đủ về 
vị trí, vai trò của giáo dục đối với sự nghiệp 
phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời 
sống vật chất tinh thần cho nhân dân. Hệ 
thống giáo dục còn thiếu đồng bộ, chưa đáp 
ứng được yêu cầu phát triển giáo dục cho 
nhân dân. Bên cạnh đó, công tác quản lý giáo 
dục có nhiều hạn chế, yếu kém và bất cập, 
chưa phù hợp với yêu cầu phát triển giáo dục 
của nhân dân. Mặt khác, chế độ đãi ngộ, tiền 
lương và phụ cấp chưa thỏa đáng đối với đội 
ngũ cán bộ, giáo viên, nhất là đội ngũ cán bộ, 
giáo viên công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng 
biên giới và hải đảo.
Vì vậy, thực hiện công bằng xã hội trong 
giáo dục ở nước ta cần phải phát huy được 
những thành tựu và từng bước khắc phục 
được những hạn chế nên trên. 
5. Một số giải pháp chủ yếu góp 
phần thực hiện công bằng xã hội 
trong giáo dục phổ thông ở Việt 
Nam hiện nay
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các 
cấp ủy Đảng và chính quyền từ Trung ương 
đến địa phương, nhận thức của đội ngũ cán 
bộ, giáo viên trong ngành giáo dục và nhân 
dân về vai trò của giáo dục và thực hiện 
công bằng xã hội trong giáo dục đối với sự 
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao 
đời sống cho nhân dân. Đảng và Nhà nước 
phải thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc 
sách hàng đầu. Giáo dục cùng với khoa 
học công nghệ là nhân tố quyết định đến 
tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, 
đầu tư giáo dục là đầu tư cho sự phát triển. 
Thực hiện chính sách đầu tư, ưu đãi đối 
với giáo dục, đặc biệt là chính sách đầu tư 
xây dựng cơ sở vật chất và chính sách tiền 
lương cho đội ngũ cán bộ, giáo viên. Để 
nâng cao nhận thức đúng đắn, đầy đủ cho 
50
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Đỗ Thị Thu Hương và Chu Thị Diễm Hương
cán bộ, đảng viên trong cơ quan của Đảng 
và Nhà nước về vai trò của việc thực hiện 
công bằng xã hội trong giáo dục cần phải 
tổ chức học tập cho đội ngũ cán bộ, đảng 
viên và đưa nội dung phát triển giáo dục vào 
sinh hoạt đảng, sinh hoạt chuyên môn của 
các cơ quan Đảng và Nhà nước. Đồng thời, 
các cơ quan Đảng và Nhà nước phải đưa 
ra các chính sách, kế hoạch và chiến lược 
phát triển giáo dục phù hợp với từng vùng, 
miền, dân tộc để tạo cơ hội học tập đầy đủ, 
phù hợp cho nhân dân lĩnh hội tri thức và 
nâng cao trình độ. Bên cạnh đó, cán bộ, giáo 
viên cần phát huy truyền thống, đạo đức của 
ngành giáo dục và đức hy sinh để phát triển 
giáo dục, tạo ra nhiều sáng kiến, hình thức 
giáo dục phù hợp nhất với các tầng lớp nhân 
dân để nâng cao trình độ dân trí, tạo ra nhiều 
điều kiện học tập cho nhân dân nhằm thực 
hiện công bằng xã hội trong giáo dục.
Thứ hai, Đảng và Nhà nước cần có chính 
sách đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, kinh 
tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo bền vững là 
điều kiện quan trọng để thực hiện công bằng 
xã hội trong giáo dục. Nhà nước cần có chính 
sách hỗ trợ về vốn, kỹ thuật cho nhân dân 
phát triển kinh tế. Các cơ quan Nhà nước và 
chính quyền địa phương cần tăng cường cán 
bộ khoa học kỹ thuật đến từng vùng cụ thể, 
không “chỉ đạo từ xa”, phải đảm bảo chính 
sách toàn diện và đồng bộ. Nhà nước và 
chính quyền địa phương cần có sự lồng ghép 
nội dung phát triển kinh tế - xã hội, hướng 
dẫn nghề nghiệp... cho nhân dân trong nội 
dung chương trình giáo dục tại các vùng 
miền cụ thể. Nhà trường cần kết hợp chặt 
chẽ nhiệm vụ học tập với lao động sản xuất 
cho học sinh, phải gắn nội dung chương trình 
giáo dục với thực tiễn đời sống kinh tế, văn 
hóa, xã hội của từng dân tộc, từng vùng miền 
để nhân dân có thể tự phát triển kinh tế - xã 
hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, 
có điều kiện để học tập, nâng cao trình độ 
dân trí, góp phần thực hiện tốt công bằng xã 
hội trong giáo dục. Đảng và Nhà nước cần 
phải có một hệ thống chính sách phát triển 
kinh tế - xã hội đồng bộ dành riêng cho các 
vùng dân tộc thiểu số, vùng miền núi, vùng 
sâu, vùng xa... để nâng cao mức sống, điều 
kiện sống cho đồng bào có cơ hội được học 
tập, nâng cao trình độ dân trí nhằm đạt đến 
trình độ giáo dục chung của cả nước là xóa 
mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ 
tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở 
những vùng này. Nhà nước và chính quyền 
địa phương cần đầu tư phát triển hệ thống 
giao thông, điện lưới, cơ sở trường lớp, trạm 
y tế đến từng thôn bản... và tạo điều kiện 
khuyến khích nhân dân các dân tộc phát triển 
ngành nghề truyền thống, khai thác được tối 
đa các thế mạnh của đồng bào vào phát triển 
kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo cho đồng bào 
có cơ hội học tập.
Thứ ba, Đảng và Nhà nước cần có chính 
sách ưu tiên trong giáo dục cụ thể cho từng 
vùng miền, cho đồng bào các dân tộc thiểu số, 
đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt 
khó khăn về cơ sở trường lớp, phương tiện 
thông tin, sách vở và phương tiện dạy học 
để phục vụ giảng dạy... Nhà nước có chính 
sách ưu tiên về tiền lương, phụ cấp, nhà ở, 
chế độ nghỉ ngơi đối với cán bộ, giáo viên 
đến công tác ở vùng có điều kiện đặc biệt 
khó khăn bằng ngân sách của tỉnh và sự hỗ 
trợ của Nhà nước. Bên cạnh đó, cần đa dạng 
hóa các hình thức tổ chức dạy học, đổi mới 
nội dung, phương pháp giáo dục phù hợp với 
văn hóa, phong tục tập quán và điều kiện của 
từng dân tộc và từng vùng dân tộc. Ngoài ra, 
đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số cần 
xây dựng đội ngũ quản lý giáo dục và giáo 
viên là người dân tộc thiểu số để tự bản thân 
mỗi dân tộc chủ động tham gia phát triển sự 
nghiệp giáo dục.
51
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 23, Số 2 (2021): 42-52
Thứ tư, việc tổ chức thực hiện công bằng 
xã hội trong giáo dục là sự nghiệp của toàn 
Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Do đó, Đảng 
và Nhà nước cần có chính sách ngắn hạn 
và dài hạn để phát triển giáo dục và thực 
hiện công bằng xã hội trong giáo dục ở các 
vùng miền trên phạm vi cả nước nhằm tạo 
cơ sở cho các địa phương thực hiện. Hiện 
nay, chính sách giáo dục ngắn hạn của Đảng 
và Nhà nước cần đề ra đối với vùng dân tộc 
thiểu số của nước ta là phổ cập giáo dục tiểu 
học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở 
và tiến tới phổ cập giáo dục trung học phổ 
thông. Chính sách mang tính chiến lược lâu 
dài cho vùng dân tộc thiểu số là tạo điều 
kiện, cơ hội học tập phù hợp cho đồng bào 
nâng cao trình độ tri thức, tay nghề và thực 
hiện quyền bình đẳng dân tộc so với các dân 
tộc khác ở Việt Nam, trên cơ sở tự làm chủ về 
kinh tế, văn hóa, giáo dục của dân tộc mình, 
không còn phụ thuộc quá lớn vào sự trợ giúp 
của Nhà nước và các dân tộc khác. Thông 
qua đó, các cấp ủy đảng và chính quyền ở 
địa phương cần vận dụng và đưa ra kế hoạch 
phát triển giáo dục cho từng địa phương phù 
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, đặc điểm 
chính trị, văn hóa của từng vùng. Các cấp ủy 
đảng và chính quyền địa phương phải thực 
hiện nghiêm minh, bám sát thực tế phát triển 
kinh tế - xã hội, trình độ dân trí của nhân 
dân, tránh tình trạng quan liêu, chủ quan, 
duy ý chí và không quan tâm đến nhân dân ở 
những vùng khó khăn, vùng sâu, xa... Đồng 
thời, cần huy động toàn dân vào thực hiện 
công bằng xã hội trong giáo dục trên cơ sở 
tôn trọng truyền thống văn hóa, phong tục 
tập quán của từng tộc người. Các cấp ủy 
đảng và chính quyền địa phương phải có kế 
hoạch vận động nhân dân tham gia vào sự 
nghiệp phát triển giáo dục cho bản thân mình 
bằng cách đóng góp sức người, sức của, sáng 
kiến về các hình thức giáo dục. Chính quyền 
địa phương phải chủ động phát huy truyền 
thống hiếu học, tương thân tương ái, tự lực, 
tự cường của nhân dân để phát triển giáo dục 
góp phần thực hiện công bằng xã hội trong 
giáo dục, không thụ động, trông chờ vào sự 
hỗ trợ, giúp đỡ của Đảng và Nhà nước.
Tóm lại, trong thời kỳ đẩy mạnh công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa, để khắc phục hạn 
chế và phát huy thành quả đã đạt được khi 
phát triển giáo dục và thực hiện công bằng xã 
hội trong giáo dục, Đảng và Nhà nước ta cần 
tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu 
sau: Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội; nâng 
cao nhận thức của cán bộ ở chính quyền địa 
phương và nhân dân để họ hiểu được vai trò 
của sự nghiệp phát triển giáo dục cũng như 
thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục; 
đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trường lớp 
ở từng địa phương và phát huy nội lực trong 
nhân dân.
6. Kết luận
Trong những năm qua, công tác tăng 
cường khả năng tiếp cận giáo dục cho nhân 
dân đã đạt được những thành tựu và kết quả 
đáng ghi nhận. Đã có một bước nhảy vọt về 
thu hẹp khoảng cách giữa các nhóm dân tộc, 
giữa các vùng miền, giữa em trai và em gái... 
Quy mô giáo dục được mở rộng; hệ thống 
trường lớp phát triển mạnh từng bước đáp 
ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Vấn đề 
công bằng xã hội trong giáo dục được quan 
tâm và đã có những chủ trương, chính sách 
thiết thực, cụ thể nhằm giải quyết vấn đề 
công bằng xã hội trong giáo dục nói chung, 
những người nghèo và đối tượng chính sách 
nói riêng. Việc thực hiện các chủ trương, 
chính sách đó đã mang lại quyền và cơ hội 
học tập cho nhân dân. Trước hết đã đảm bảo 
cho đại bộ phận nhân dân trong độ tuổi đã 
được học tập đạt trình độ xóa mù chữ và phổ 
cập tiểu học, từng bước phổ cập trung học cơ 
52
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Đỗ Thị Thu Hương và Chu Thị Diễm Hương
sở. Ðồng thời đã tạo cơ hội và những điều 
kiện cơ bản để học tập đạt được trình độ trên 
mức phổ cập cho mọi người, trong đó đã chú 
trọng tới các khu vực đặc biệt khó khăn, các 
đối tượng là người dân tộc thiểu số, người 
nghèo và đối tượng chính sách xã hội. Qua 
quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã có những 
quan điểm nhất định về công bằng xã hội 
trong giáo dục phổ thông và đưa ra một số 
giải pháp để góp phần đáp ứng nhu cầu tiếp 
cận bình đẳng của học sinh trong giáo dục 
trong những năm tiếp theo.
Tài liệu tham khảo
[1] Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam 
(2015). Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 
2011 - 2020. Truy cập ngày 03/02/2020, từ 
<
chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/
lan-thu-xi/chien-luoc-phat-trien-kinh-te-xa-
hoi-2011-2020-1527>.
[2] C. Mác - Ăngghen (1995). Toàn tập (tập 19). 
Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 36-37.
[3] C. Mác - Ăngghen - V. I. Lênin (1984). Bàn về 
giáo dục. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội,.
[4] Luật Giáo dục và các văn bản hướng dẫn thi 
hành (2006). Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
[5] Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 
năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10.
[6] Bộ Giáo dục và Đào tạo - UNICEF - Viện Thống 
kê UNESCO (2017). Báo cáo Trẻ em ngoài nhà 
trường: Nghiên cứu của Việt Nam 2016, Hà Nội.
[7] Phan Thị Lan & Nguyễn Thị Thanh Xuyên 
(2015). Tìm hiểu về vấn đề bất bình đẳng giới 
trong việc tiếp cận giáo dục bậc trung học phổ 
thông đối với học sinh dân tộc Cơ-tu ở Tây 
Giang, Quảng Nam, Việt Nam. Tạp chí Khoa 
học xã hội miền Trung, 4, 77-86.
SOCIAL JUSTICE IN GENERAL EDUCATION IN VIETNAM TODAY: 
VIEWPOINTS AND SOLUTIONS
Do Thi Thu Huong1, Chu Thi Diem Huong2
1Faculty of Political Education and Educational Psychology, Hung Vuong University, Phu Tho 
2Political School of Tuyen Quang, Tuyen Quang
Abstract
Social justice in education is to create the equal studying opportunity and suitable environment for all people in approaching and participating in the educational process at educational institutions on 
the basis of social and economic conditions. In Vietnam, under the leadership of the Party and the State 
management during recent years, the implementation of social justice in education has been attaining 
remarkable achievements but still remaining many limitations and weaknesses need to be overcome. 
This article presents specific perspectives in social justice in education, based on researching the current 
implementation situation of social justice in education, the authors propose a number of major solutions to 
contribute the implementation of mentioned subject.
Keywords: Social justice, social justice in education.

File đính kèm:

  • pdfcong_bang_xa_hoi_trong_giao_duc_pho_thong_o_viet_nam_hien_na.pdf