Cơ chế bảo đảm quyền tự chủ của các trường Đại học ở Việt Nam

Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam không có các viện nghiên cứu mạnh như

Ấn Độ, đại học nghiên cứu kiểu truyền thống Humboldt để là đầu tầu, hay đại học

nhân văn của Anh, Không thể phủ nhận, giáo dục đại học tại Việt Nam đang thua

kém nhiều so với các nước trong khu vực, mặc dù những biến chuyển trong chính sách

phát triển hệ thống giáo dục đại học thời gian gần đây cho thấy rõ quyết tâm cải tổ,

nâng cao chất lượng đào tạo. Trong các biện pháp được thiết lập, tự chủ đại học được

xem là điểm bản lề giữ vai trò mấu chốt hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng đào

tạo đại học, đồng thời góp phần giảm gánh nặng ngân sách trong chi thường xuyên.

Tuy nhiên, từ yếu tố lịch sử và đặc thù của hệ thống giáo dục đại học tại Việt Nam,

việc triển khai tự chủ đại học trong thời gian qua gặp không ít những khó khăn thách

thức, cần thiết phải xem xét, đánh giá và đưa ra giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo thực

hiện tự chủ hiệu quả, đạt mục tiêu của giáo dục đại học.

Cơ chế bảo đảm quyền tự chủ của các trường Đại học ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Cơ chế bảo đảm quyền tự chủ của các trường Đại học ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Cơ chế bảo đảm quyền tự chủ của các trường Đại học ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Cơ chế bảo đảm quyền tự chủ của các trường Đại học ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Cơ chế bảo đảm quyền tự chủ của các trường Đại học ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Cơ chế bảo đảm quyền tự chủ của các trường Đại học ở Việt Nam trang 6

Trang 6

Cơ chế bảo đảm quyền tự chủ của các trường Đại học ở Việt Nam trang 7

Trang 7

Cơ chế bảo đảm quyền tự chủ của các trường Đại học ở Việt Nam trang 8

Trang 8

Cơ chế bảo đảm quyền tự chủ của các trường Đại học ở Việt Nam trang 9

Trang 9

Cơ chế bảo đảm quyền tự chủ của các trường Đại học ở Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang baonam 8420
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Cơ chế bảo đảm quyền tự chủ của các trường Đại học ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ chế bảo đảm quyền tự chủ của các trường Đại học ở Việt Nam

Cơ chế bảo đảm quyền tự chủ của các trường Đại học ở Việt Nam
 245 
CƠ CHẾ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ CHỦ 
CỦA CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM 
Phan Thị Lan Hương 
Nguyễn Thị Thanh Tú 
Trường Đại học Luật Hà Nội 
Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam không có các viện nghiên cứu mạnh như 
Ấn Độ, đại học nghiên cứu kiểu truyền thống Humboldt để là đầu tầu, hay đại học 
nhân văn của Anh, Không thể phủ nhận, giáo dục đại học tại Việt Nam đang thua 
kém nhiều so với các nước trong khu vực, mặc dù những biến chuyển trong chính sách 
phát triển hệ thống giáo dục đại học thời gian gần đây cho thấy rõ quyết tâm cải tổ, 
nâng cao chất lượng đào tạo. Trong các biện pháp được thiết lập, tự chủ đại học được 
xem là điểm bản lề giữ vai trò mấu chốt hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng đào 
tạo đại học, đồng thời góp phần giảm gánh nặng ngân sách trong chi thường xuyên. 
Tuy nhiên, từ yếu tố lịch sử và đặc thù của hệ thống giáo dục đại học tại Việt Nam, 
việc triển khai tự chủ đại học trong thời gian qua gặp không ít những khó khăn thách 
thức, cần thiết phải xem xét, đánh giá và đưa ra giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo thực 
hiện tự chủ hiệu quả, đạt mục tiêu của giáo dục đại học. 
1. Cơ sở pháp lý và nội dung của tự chủ đại học 
Về cơ sở pháp lý của thực hiện chủ đại học tại Việt Nam 
Nhìn chung, chính sách và pháp luật tại Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý tương 
đối đầy đủ, rõ ràng trong triển khai tự đại học tại Việt Nam. Vấn đề tự chủ của các cơ 
sở giáo dục – đào tạo nói chung, đặc biệt cơ sở giáo dục đại học, đã được đề cập trong 
các văn bản chính thức của Đảng và Nhà nước từ khá sớm. Nghị Quyết số 14/2005 của 
Chính phủ năm 2005 về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đại học Việt Nam đã nêu 
rõ : “Trên cơ sở đổi mới tư duy và cơ chế quản lý giáo dục đại học, kết hợp hợp lý và 
hiệu quả giữa việc phân định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước và việc đảm 
bảo quyền tự chủ, tăng cường trách nhiệm xã hội, tính minh bạch của các cơ sở giáo 
dục đại học. Phát huy tính tích cực và chủ động của các cơ sở giáo dục đại học trong 
công cuộc đổi mới mà nòng cốt là đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và sự hưởng 
ứng, tham gia tích cực của toàn xã hội”; “Chuyển các cơ sở giáo dục đại học công lập 
sang hoạt động theo cơ chế tự chủ, có pháp nhân đầy đủ, có quyền quyết định và chịu 
trách nhiệm về đào tạo, nghiên cứu, tổ chức, nhân sự và tài chính.” 
Luật Giáo dục đại (Luật GDĐH) năm 2012 đã quy định quyền tự chủ của cơ sở 
GDĐH theo hướng xác định phạm vi tự chủ bao gồm “lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài 
chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng 
giáo dục đại học” (Điều 31, khoản 1). 
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị 
quyết số 29-NQ/TW) cũng xác định “tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các 
cơ sở giáo dục, đào tạo” là một trong những nhiệm vụ cải cách giáo dục, đào tạo. Tiếp 
đó Chính phủ ban hành Nghị quyết 77/NQ-CP về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động 
đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 – 2017, Nghị quyết là văn 
bản pháp quy đầu tiên hướng dẫn thực hiện tự chủ cho các trường đại học hình thức tự 
chủ có điều kiện. 
 246 
 Luật Giáo dục đại học sửa đổi năm 2018 và Nghị định số 99/2019/NĐ-CP 
hướng dẫn thi hành Luật GDĐH sửa đổi đã tiếp tục quy định cụ thể và chi tiết hơn 
quyền tự chủ của cơ sơ đào tạo đại học. Các nội dung quyền tự chủ, các nội dung tự 
chủ học thuật, tự chủ trong tổ chức và nhân sự, tự chủ trong tài chính và tài sản của 
trường đại học được quy định cụ thể (Điều 4, Điều 32). 
Cùng với các quy định tại Luật GDĐH, nội dung quyền tự chủ đại học cũng 
được đặt ra trong các quy định về quyền tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập. 
Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành 
Trung ương Đảng khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao 
chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) nêu rõ: 
đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo 
đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu 
quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công; cung ứng 
dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao. Cụ thể hoá nội 
dung tự chủ của đơn vụ sự nghiệp công lập, Chính phủ đã văn bản triển khai như: 
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, 
tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối 
với đơn vị sự nghiệp công lập; Từ năm 2015 thay thế bởi Nghị định 16/2015/NĐ-CP 
theo hướng quy định các vấn đề chung, làm căn cứ cho các bộ, cơ quan liên quan xây 
dựng các văn bản riêng đối với từng lĩnh vực cụ thể. Nghị định 16/2015/NĐ-CP quy 
định các nguyên tắc, quy định chung về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập 
trong đó có lĩnh vực giáo dục (Điều 1). 
Về nội dung quyền tự chủ đại học tại Việt Nam 
Quy định chung về tự chủ của đơn vị sự  ...  đầu tư (980.000 đồng/tháng/sinh 
viên). Cách quy định này dẫn đến sự khác biệt lớn trong mức học phí giữa các cơ sở 
đào tạo đại học có cùng chuyên ngành, ví dụ giữa Khoa Luật Trường Đại học Kinh tế 
Quốc dân là đơn vị tự chủ toàn bộ với Trường Đại học Luật Hà Nội (chưa tự chủ toàn 
bộ). Có thể thấy cách áp đặt mức trần khung học phí dựa trên tiêu chí tự chủ về tài 
chính (chi thường xuyên và chi đầu tư) mà không tính theo chất lượng đào tạo sẽ là rào 
cản đầu tiên làm hạn chế việc thực hiện quyền tự chủ. Quy định mức trần học phí sẽ 
“trói” các cơ sở giáo dục đại học chưa tự chủ hoàn toàn về tài chính và đây cũng chính 
là rào cản để các cơ sở giáo dục đại học thực hiện quyền tự chủ về nhiệm vụ, xây dựng 
chương trình đào tạo, tổ chức bộ máy và nhân sự. Ngoài ra, việc chưa tự chủ về chỉ 
tiêu tuyển sinh, ngành nghề đào tạo do phụ thuộc vào điều kiện về tự chủ tài chính 
cũng đã làm hạn chế nguồn thu của cơ sở giáo dục đại học. Kết quả là các cơ sở giáo 
dục đại học vẫn đang loay hoay với giải pháp tăng nguồn thu để đảm bảo mục tiêu tự 
chủ về chi thường xuyên và chi đầu tư. 
Ngoài ra, chính sách miễn giảm học phí đối với các đối tượng cũng ảnh hưởng 
đến nguồn thu của cơ sở đào tạo đại học. Chưa có quy định rõ về kinh phí mà cơ sở 
giáo dục đại học nhận được nếu áp dụng chính sách miễn giảm học phí theo quy đinh. 
12 Hoàng Thị Cẩm Thương (2017), Giải pháp tăng cường tự chủ đại học ở Việt Nam, Tạp chí tài chính, kì 1, số 
thàng 3/2017. 
13 Đọc thêm Nghị định 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 quy định mức trần học phí của cơ sở giáo dục từ năm 
học 2015-2016 đến năm học 2020-2021. 
 252 
Thông thường một số quốc gia sẽ tiến hành chính sách hỗ trợ trực tiếp cho các đối 
tượng để đảm bảo không ảnh hưởng đến nguồn thu của cơ sở giáo dục, ví dụ ở Nhật 
bản chương trình học bổng sẽ bao gồm sinh hoạt phí và học phí, học phí sẽ trả trực 
tiếp cho nhà trường, 
Về nguồn thu từ NSNN, nguồn thu từ NSNN chiếm từ 30-40% tổng thu của các 
trường đại học hàng năm. Điểm đáng lưu ý là việc phân bổ ngân sách vẫn chưa thực sự 
gắn với kết quả đầu ra, chất lượng của hoạt động. iệc phân bổ NSNN cho các trường 
ĐHCL thông qua cơ quan chủ quản khác nhau của các trường ĐHCL (các Bộ, cơ quan 
thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh), dẫn đến biểu hiện có sự không thống nhất về tiêu 
chí phân bổ, chưa thực sự công bằng trong việc thụ hưởng NSNN. Điều này dẫn đến 
giảm động lực cạnh tranh giữa các trường, ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng 
ngân sách. 
Trong sử dụng tài sản công, mặc dù có Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, 
Nghị định số 15/2015/NĐ-CP song nhìn chung vẫn chưa có cơ chế thực sự rõ ràng và 
linh hoạt hướng dẫn quá trình liên kết giữa các đơn vụ sự nghiệp về giáo dục với đói 
tác, trong sử dụng tài sản. Do đó, đến hiện nay, việc khai thác tài sản công mới chỉ 
dừng ở mức các trường cho thuê tài sản công dưới hình thức là tận dụng cơ sở vật chất 
như cho thuê tận dụng phòng học, phòng thí nghiệm, hội trường, sân bãi tập thể thao, 
trông giữ xe, cung cấp dịch vụ căng tin Về cơ bản là chưa thực sự tiến hành sử dụng 
tài sản công vào mục đích kinh doanh dịch vụ, cho thuê, liên doanh, liên kết một cách 
sâu sắc và chưa hiệu quả. 
Như vậy, có thể thấy các quy định về điều kiện tự chủ tài chính cũng làm hạn 
chế quyền tự chủ trong lĩnh vực nhân sự, tổ chức bộ máy, kết quả là các cơ sở giáo dục 
đại học công lập gặp khó khăn trong việc nâng cao năng lực, mở rộng mã ngành, tăng 
nguồn thu. 
3. Một số khuyến nghị 
Bảo đảm quyền tự chủ là một yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hội nhập và toàn 
cầu hóa, đặc biệt là đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục đại học đạt tiêu 
chuẩn khu vực và quốc tế. Hiện nay số lượng các trường đại học ở Việt Nam được xếp 
hạng trong khu vực và thế giới còn hạn chế. Một trong những nguyên nhân đó là vẫn 
thiếu các chính sách để thúc đẩy sự phát triển, nâng cao năng lực của các cơ sở giáo 
dục đại học. Bảo đảm quyền tự chủ là một trong những yêu cầu cấp thiết để giảm bớt 
gánh nặng ngân sách của nhà nước, tăng quyền chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo 
dục đại học. Tuy nhiên, cần có cách tiếp cận hợp lý về các cơ chế bảo đảm quyền tự 
chủ. 
Thứ nhất, kiến nghị trong thực hiện quyền tự chủ về học thuật, hoạt động 
chuyên môn và nhiệm vụ khác 
Đầu tiên, trong các quy định về tự chủ của trường đại học cần đề cập đến tự do 
học thuật. Các trường đại học cần nghiên cứu, xây dựng các cơ chế cho phép và 
khuyến khích tự do học thuật như là một khía cạnh của tự chủ đại học để phát huy tốt 
nội lực của đội ngũ giảng viên. 
Hai là, cần nghiên cứu việc trao quyền tự chủ cho các trường trong việc xây 
dựng các kế hoạch hoạt động theo yêu cầu phát triển của xã hội: đào tạo đại học gắn 
liền với nhu cầu của thị trường, các trường đại học cần chủ động xây dựng kế hoạch 
phát triển cho các giai đoạn trung hạn và dài hạn, đảm bảo chuẩn đầu ra đáp ứng các 
 253 
yêu cầu của nhà tuyển dụng trong và ngoài nước. Các chương trình đào tạo cần được 
cải tiến cho phù hợp với các chương trình đào tạo tiên tiến trong khu vực và trên thế 
giới, dần xóa bỏ khoảng cách trong các chương trình đào tạo (chương trình đào tạo hội 
nhập). 
Ba là, cần xây dựng cơ chế kiểm tra và đánh giá chất lượng đào tạo của các 
trường đại học: tự chủ tạo điều kiện cho các trường đại học chủ động trong học thuật, 
đào tạo và nghiên cứu. Tuy nhiên, Nhà nước vẫn cần giữ vai trò quản lý chất lượng 
đào tạo của các trường. Bên cạnh việc quy định các trường đại học tự kiểm soát và tự 
đánh giá thì việc thành lập một cơ quan kiểm tra, đánh giá chất lượng dựa trên bộ tiêu 
chí cụ thể là hết sức cần thiết. Các tiêu chí đánh giá phải được xây dựng theo chuẩn 
của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới để góp phần nâng cao chất lượng đào 
tạo trong nước, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trong khu vực, đảm bảo 
yêu cầu hội nhập và toàn cầu hóa. Nhà nước cần phải thay đổi phương thức quản lý 
các trường đại học bằng cách tập trung vào đánh giá kết quả hoạt động và không can 
thiệp quá sâu vào các công việc nội bộ của trường. Nâng cao quyền chủ động của mỗi 
trường, đồng thời quy định rõ trách nhiệm, bảo đảm xử lý nghiêm minh các vi phạm 
Thứ hai, kiến nghị trong thực hiện quyền tự chủ về tổ chức và nhân sự 
Một là, các trường đại học cần đổi mới mô hình quản trị theo dạng tập đoàn hay 
doanh nghiệp, trong đó đề cao trách nhiệm của người đứng đầu. Các trường đại học 
được vận hành theo bộ máy của một tập đoàn, công ty có chủ tịch và hội đồng quản trị, 
bên cạnh đó có hệ thống các Hội đồng quản lý, Hội đồng giáo dục và nghiên cứu, bộ 
phận giúp việc, có sự phân công rõ trách nhiệm, quyền hạn. Chủ tịch tập đoàn là người 
có quyền đưa ra các quyết định và chịu trách nhiệm về các quyết định đó. Cơ chế này 
đảm bảo việc tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu, giảm các quyết định mang 
tính chất tập thể (giảm số lượng các cuộc họp quyết định các vấn đề theo đa số). 
Hai là, cơ chế tự chủ cần đảm bảo cho các trường đại học có quyền chủ động 
quyết định về biên chế (số lượng người lao động): có chính sách thu hút nhân tài 
(không chỉ theo hình thức tuyển dụng viên chức như hiện nay), có cơ chế trả lương 
theo vị trí việc làm và không áp dụng hệ thống thang bảng lương theo thâm niên. Chủ 
động trong việc tuyển dụng và sử dụng nhân sự là điều kiện để các trường thu hút 
được những người đang làm việc ở các công ty tư nhân, ở nước ngoài trở thành các 
giảng viên, chuyên gia trong các trường đại học. Để làm được điều này, cần thiết phải 
thự hiện được một trong ba điểm yếu mà giáo sư Hoàng Tuy cho rằng đã dẫn đến sự 
lạc lối trong giáo dục địa học tại Việt Nam, đó là hệ thống thù lao không hợp lý mà 
hiện đang là một trở ngại nguy hiểm chết người ở những khoa nghiên cứu. 
Ba là, về Hội đồng trường, mô hình tổ chức hoạt động của Hội đồng trường cần 
được nghiên cứu kỹ lưỡng và xác định rõ ràng về cấu trúc quản trị. Bất kể là cấu trúc 
“đơn viện” (Hội đồng trường là cấp cao duy nhất) hay “lưỡng viện” (Hội đồng trường 
song song giữ vai trò lãnh đạo cùng với một tổ chức khác như Đảng ủy) cũng cần 
được làm rõ để xác định đầy đủ sự tham gia và vai trò của các tổ chức nội bộ trong hệ 
thống quản trị nhà trường. 
Thứ ba, kiến nghị trong thực hiện quyền tự chủ về tài chính 
Giáo dục có ý nghĩa hết sức quan trọng trong định hướng phát triển bất kì quốc 
gia nào, do đó, chi cho giáo dục luôn là khoản chi được ưu tiên và có xu hướng tăng 
lên trong cơ cấu ngân sách. Nghiên cứu cho thấy, tự chủ tài chính song vẫn cần thiết 
 254 
có sự hỗ trợ tài chính của nhà nước. Vấn đề mấu chốt trong tự chủ tài chính là tạo ra 
cơ chế hợp lí, linh hoạt để khai thác được năng lực của các cơ sở đào tạo. Nhận thức 
được cơ cấu, vị trí và đặc thù các khoản thu của các cơ sở đào tạo đại học tại Việt 
Nam, chúng tôi cho rằng trong quy định về vấn đề tự chủ tài chính của cơ sở đào tại 
đại học cần xem xét một số vấn đề sau: 
Trước hết, các trường đại học cần được tự quyết định và chủ động về khai thác, 
tìm kiếm các nguồn tài chính; cách thức sử dụng các nguồn tài chính và tài sản hiện 
có, đầu tư cho tài sản tương lai; cân đối các nguồn tài chính thu, chi nhằm đảm bảo hệ 
thống tài chính minh bạch, tuân thủ pháp luật và không vụ lợi. Các trường có quyền tự 
chủ trong quyết định các nguồn thu và mức chi theo quy chế chi tiêu nội bộ của 
trường. 
Về khoản thu liên quan học phí, trường Đại học cần có cơ chế khai thác tối đa 
khả năng huy động nguồn học phí trong khuôn khổ cho phép như xây dựng các 
chương trình chất lượng cao, liên kết. Để làm được điều này, cần thu hút nguồn nhân 
lực có chất lượng cao, tăng cường các quan hệ hợp tác quốc tế với các cơ sở đào tạo 
các nước có nền giáo dục tiên tiến. Hoạt động này không chỉ nâng cao vị thế, tạo điều 
kiện để các cơ sở đào tạo đại học phát triển quy mô, chất lượng, vị thế, đồng thời còn 
tạo điều kiện, môi trường nâng cao chất lượng giáo viên, chương trình đào tạo. Việc 
quyết định dạy và học bằng tiếng nước ngoài cũng được ghi nhận trong Luật Giáo dục 
đại học, theo đó “cơ sở giáo dục đại học quyết định việc dạy và học bằng tiếng nước 
ngoài trong nhà trường” (Điều 10). 
Về khoản thu từ NSNN, xem xét áp dụng kết hợp nhiều phương thức phân bổ 
ngân sách nhằm tạo tính cạnh tranh và góp phần khuyến khích nâng cao hiệu quả hoạt 
động nghiên cứu và giảng dạy tại các trường. 
Theo nghiên cứu của WorldBank (2008), phân bổ ngân sách cho các trường đại 
học công được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau như: Phân bổ hàng năm 
cho hoạt động giáo dục; đàn phán hàng năm; xác định mức phân bổ theo số lượng sinh 
viên; phân bổ theo kết quả công việc (số sinh viên tốt nghiệp) hoặc đấu thầu cạnh 
tranh. Trong đó các nước OEDC thường thực hiện sự phân bổ nguồn quỹ kết hợp 
nhiều hình thức, thông thường sẽ tách biệt giữa tài trợ cho hoạt động giảng dạy và hoạt 
động nghiên cứu, hoặc phân bổ quỹ trong thời gian trung hạn để các trường có thực 
hiện lập kế hoạch sử dụng,.14. Ví dụ tại Nhật Bản, nguồn kinh phí cho các trường 
đại học ở Nhật Bản chủ yếu được chia thành ba loại: kinh phí chi cho hoạt động 
thường xuyên; kinh phí cạnh tranh dành cho hoạt động nghiên cứu khoa học của mỗi 
cá nhân; nguồn trợ cấp cho sinh viên. Nhà nước sẽ cấp các khoản kinh phí này cho các 
trường đại học quốc gia. Bên cạnh đó, Nhật Bản áp dụng chính sách phân bổ ngân 
sách dựa trên sự cạnh tranh giữa các trường đại học quốc gia, đại học công lập và đại 
học tư thục thông qua các nguồn kinh phí tài trợ (các dự án). Các trường đại học cần 
phải đẩy mạnh cải cách, xây dựng các dự án để xin các nguồn tài trợ từ Chính phủ 
Nhật Bản15. 
14 John Fielden, Global trends in university governance, World Bank, 2008, tr.28-30. 
15 Phan Thị Lan Hương, 2019, trao quyền tự chủ đại học tại Nhật Bản và kinh nghiệm đối với Việt Nam, tạp chí 
Tổ chức nhà nước, https://tcnn.vn/news/detail/45861/Trao-quyen-tu-chu-dai-hoc-cua-Nhat-Ban-va-kinh-
nghiem-doi-voi-Viet-Nam.html, truy cập ngày 25/9/2020. 
 255 
 Tại Việt Nam hiện nay, xu hướng tự chủ ở các trường đại học lớn ở Việt Nam 
là phấn đấu tự chủ 100% về nguồn tài chính. Tuy nhiên, nếu áp dụng tự chủ 100% có 
thể dẫn đến tình trạng một số trường không thu hút được sinh viên, không thể có đủ 
nguồn thu; hoặc phải tăng mức học phí tối đa để đảm bảo nguồn thu. Hai khả năng này 
có thể ảnh hưởng tiêu cực đến người học cũng như không đảm bảo cho một số ngành 
đào tạo đặc thù. Do đó, cơ chế tự chủ không đồng nghĩa với việc xóa bỏ hoàn toàn 
phần ngân sách nhà nước cấp, mà việc cấp ngân sách sẽ được thực hiện trên cơ sở kế 
hoạch hoạt động của mỗi trường cũng như mục tiêu mà cơ quan quản lý đã đề ra để 
đảm bảo việc phân bổ và sử dụng ngân sách hiệu quả. 
Về quản lý tài sản nhà nước, cần khuyến khích các đơn vị sự nghiệp giáo dục 
đào tạo công lập nói chung và đào tạo đại học nói riêng tập trung khai thác có hiệu 
quả, đồng thời quản lý chặt chẽ tài sản công. Một số giải pháp cụ thể cần xem xét như 
sau: cần phân cấp cụ thể hơn nữa vấn đề quản lý tài sản công, tạo điều kiện cho các bộ, 
ngành, địa phương có thẩm quyền quyết định phương án xử lý tài sản công ở đơn vị, 
địa phương mình; cần có hướng dẫn chi tiết về tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản 
chuyên dùng thuộc lĩnh vực giáo dục và đào tạo để các đơn vị chủ quản có sơ sở xây 
dựng, ban hành tiêu chuẩn, định mức cho cơ sở đào tạo xây dựng ban hành tiêu chuẩn. 
Tóm lại, tự chủ là một trong những nội dung rất quan trọng trong đào tạo đại 
học, tồn tại như một nguyên tắc có tác động lớn và đảm bảo tính hiệu quả và các mục 
tiêu khác của đào tạo đại học. Triển khai tự chủ đại học tại Việt Nam đã và đang được 
nhận thức tương đối rõ ràng thể hiện qua chính sách và quy định tương đối đầy đủ và 
toàn diện. Tuy nhiên, để triển khai hiệu quả hơn, cần thiết có những giải pháp mạnh 
mẽ và lộ trình cụ thể, rõ ràng từ cơ quan quản lý và từng cơ sở đào tạo đai học. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Xuân Xanh, 2018, Đại học – Định chế giáo dục cao thay đổi thế giới từ 
Trung cổ đến Hiện đại, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. 
2. John Fielden, Global trends in university governance, World Bank, 2008, 
WP0BOX311webversion01PUBLIC1.pdf, truy cập ngày 22/9/2020. 
3. Kemal Gurus, 2011. “University Autonomy and Academic Freedom: A Historial 
Perspective”, trong “International Higher Education”, No 63, Spring 2011. 
4. Hoàng Thị Cẩm Thương (2017), Giải pháp tăng cường tự chủ đại học ở Việt Nam, 
Tạp chí tài chính, kì 1, số thàng 3/2017 
5. Phạm Xuân Trường, 2019, Tài chính cho các trường đại học công lập khi thực 
hiện cơ chế tự chủ, Tạp chí tài chính kì 1 tháng 11/2019, 
cong-lap-khi-thuc-hien-co-che-tu-chu-318052.html, truy cập ngày 24/9/2020. 
6. Phan Thị Lan Hương, 2019, trao quyền tự chủ đại học tại Nhật Bản và kinh 
nghiệm đối với Việt Nam, tạp chí Tổ chức nhà nước, 
https://tcnn.vn/news/detail/45861/Trao-quyen-tu-chu-dai-hoc-cua-Nhat-Ban-va-
kinh-nghiem-doi-voi-Viet-Nam.html, truy cập ngày 25/9/2020 

File đính kèm:

  • pdfco_che_bao_dam_quyen_tu_chu_cua_cac_truong_dai_hoc_o_viet_na.pdf