Chính sách tự chủ đại học của nhà nước và năng lực thực tế của hệ thống giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay
Tự chủ đại học không chỉ là một xu hướng phát triển tất yếu, mà còn là nhu cầu
cấp thiết của nhiều các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, quá trình
xây dựng mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ trong giáo dục đại học phải tuân thủ một
số nguyên tắc khoa học và điều kiện thực tiễn nhất định. Tất cả các nguyên tắc này đều
đã được đề cập trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về tự
chủ đại học bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau, nhưng về cơ bản có thể được
tóm gọn lại trong 5 yếu tố cụ thể, gồm: 1) tự chủ mục tiêu, sứ mệnh, và nhiệm vụ, 2)
tự chủ học thuật, 3) tự chủ về cơ cấu tổ chức và nhân sự, 4) tự chủ tài chính, và 5) tự
chủ cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ đào tạo. Mặc dù vẫn còn không ít vấn đề
cần phải được tiếp tục cập nhật và bổ sung, nhưng hệ thống các cơ chế, chính sách, và
quy định của phát luật Việt Nam về tự chủ đại học đã tạo hành lang pháp lý cho quá
trình ra đời, vận hành, và phát triển của mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ trong hệ
thống giáo dục đại học nước nhà thời gian qua. Tuy vậy, khả năng triển khai thực hiện
trong thực tế của mỗi trường đại học không chỉ một khác nhau, mà còn tương đối hạn
chế so với các quy định hiện hành của luật pháp Việt Nam định xét về tổng thể. Ngoài
các trường đại học ngoài công lập và một số trường đại học công lập có tiềm lực, phần
lớn các trường đại học còn lại của Việt Nam hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong
quá trình chuyển đổi mô hình hoạt động có tính chất bước ngoặt này. Bên cạnh cơ chế
kiểm soát toàn diện của các cơ quan chủ quản và chủ sở hữu, thì hệ thống giáo dục đại
học Việt Nam được cấu thành bởi nhiều bộ phận khác nhau, nhưng đến nay vẫn chưa
có các văn bản quy định rõ ràng đối với cơ chế tự chủ của từng mô hình cụ thể này.
Thực tế đó đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về mặt
quản lý nhà nước trên lĩnh vực tự chủ đại học, nhưng bản thân các cơ sở giáo dục đại
học cũng phải phấn đấu đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn cụ thể của cơ chế tự chủ theo
quy định, thì người học cũng phải nâng cao năng lực tự giác, trong khi sự tham gia của
bên thứ ba ngày càng trở nên thiết yếu hơn bao giờ hết.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách tự chủ đại học của nhà nước và năng lực thực tế của hệ thống giáo dục Đại học Việt Nam hiện nay
315 CHÍNH SÁCH TỰ CHỦ ĐẠI HỌC CỦA NHÀ NƯỚC VÀ NĂNG LỰC THỰC TẾ CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM HIỆN NAY Nguyễn Mậu Hùng Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế Tóm tắt Tự chủ đại học không chỉ là một xu hướng phát triển tất yếu, mà còn là nhu cầu cấp thiết của nhiều các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, quá trình xây dựng mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ trong giáo dục đại học phải tuân thủ một số nguyên tắc khoa học và điều kiện thực tiễn nhất định. Tất cả các nguyên tắc này đều đã được đề cập trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về tự chủ đại học bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau, nhưng về cơ bản có thể được tóm gọn lại trong 5 yếu tố cụ thể, gồm: 1) tự chủ mục tiêu, sứ mệnh, và nhiệm vụ, 2) tự chủ học thuật, 3) tự chủ về cơ cấu tổ chức và nhân sự, 4) tự chủ tài chính, và 5) tự chủ cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ đào tạo. Mặc dù vẫn còn không ít vấn đề cần phải được tiếp tục cập nhật và bổ sung, nhưng hệ thống các cơ chế, chính sách, và quy định của phát luật Việt Nam về tự chủ đại học đã tạo hành lang pháp lý cho quá trình ra đời, vận hành, và phát triển của mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ trong hệ thống giáo dục đại học nước nhà thời gian qua. Tuy vậy, khả năng triển khai thực hiện trong thực tế của mỗi trường đại học không chỉ một khác nhau, mà còn tương đối hạn chế so với các quy định hiện hành của luật pháp Việt Nam định xét về tổng thể. Ngoài các trường đại học ngoài công lập và một số trường đại học công lập có tiềm lực, phần lớn các trường đại học còn lại của Việt Nam hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình chuyển đổi mô hình hoạt động có tính chất bước ngoặt này. Bên cạnh cơ chế kiểm soát toàn diện của các cơ quan chủ quản và chủ sở hữu, thì hệ thống giáo dục đại học Việt Nam được cấu thành bởi nhiều bộ phận khác nhau, nhưng đến nay vẫn chưa có các văn bản quy định rõ ràng đối với cơ chế tự chủ của từng mô hình cụ thể này. Thực tế đó đòi hỏi phải hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về mặt quản lý nhà nước trên lĩnh vực tự chủ đại học, nhưng bản thân các cơ sở giáo dục đại học cũng phải phấn đấu đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn cụ thể của cơ chế tự chủ theo quy định, thì người học cũng phải nâng cao năng lực tự giác, trong khi sự tham gia của bên thứ ba ngày càng trở nên thiết yếu hơn bao giờ hết. Từ khóa: chính sách, tự chủ đại học, năng lực thực tế, hệ thống giáo dục đại học, Việt Nam Abstract State’s policies on university autonomy and the actual capacity of Vietnsm’s current higher education system University autonomy is not only an inevitable development trend, but also an urgent need of many Vietnam’s current higher education institutions. However, the process of building the governance model according to the autonomy mechanism in higher education must comply with a certain number of scientific principles and practical conditions. All of these principles have been mentioned in Vietnam’s system of legal documents on university autonomy in various forms and degrees, but they can basically be summarized in 5 elements, including: 1) autonomy in goal, mission, and 316 task, 2) academic autonomy, 3) autonomy in organization and personnel, 4) financial autonomy, and 5) autonomy in facility and equipment for training. Although there are still many issues that need to be further updated and supplemented, the system of mechanisms, policies, and regulations of Vietnam’s law on university autonomy has created a legal corridor for the birth, operation, and development of the governance model according to the autonomy mechanism in the national higher education system in recent years. However, the implementation capacity of each university is in practice not only different, but also relatively limited compared to the current provisions of Vietnam’s law in general. In addition to non-public universities and a number of potential public universities, most of Vietnam’s remaining universities are facing a number of difficulties in this turning-point transformation of the operational model. Apart from the comprehensive control mechanism of the governing bodies and owners, Vietnam’s higher education system is constructed by several different components, but there have so far been no clear legal documents and regulations for the autonomy mechanism of each of these particular models. That fact requires further improvements of the system of legal documents in terms of state management in the field of higher university autonomy, but higher education institutions themselves must strive to fully satisfy the specific standards of autonomy mechanism in accordance with regulations, learners must also enhance their self-awareness, while third-party participation become more increasingly essential than ever. Keywords: policy, university autonomy, actual capacity, higher education system, Vietnam 1. ... đại học vùng đầu tiên trong những năm 1993-1995 và hoàn thiện dần dần cho đến Luật Giáo dục năm 2019. Mặc dù vẫn còn không ít vấn đề cần phải được tiếp tục nghiên cứu, sửa chữa, và bổ sung, nhưng hệ thống các cơ chế, chính sách, và quy định của Việt Nam về tự chủ đại học đã tạo hành lang pháp lý cho quá trình ra đời, vận hành, và phát triển của mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ trong hệ thống giáo dục đại học Việt Nam trong gần 3 thập kỷ qua. Tuy vậy, năng thực tế, tiềm lực vốn có, và khả năng triển khai thực hiện trong thực tế của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam không chỉ rất khác xa nhau, mà còn tương đối hạn chế so với luật định xét về tổng thể. Ngoài các trường đại học ngoài công lập thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính, cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ đào tạo, và cơ cấu tổ chức và nhân sự ngay từ đầu cũng như một số trường đại học công lập có tiềm lực đã bước đầu thực hiện thành công mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ, phần lớn các trường đại học công lập còn lại của Việt Nam hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình chuyển đổi mô hình hoạt động có tính chất bước ngoặt này. Điều đó có nghĩa là mặc dù hành lang pháp lý đã sẵn sàng, nhưng tự chủ đại học trong thực tế không phải là câu chuyện ngày một ngày hai của cả một hệ thống. Bên cạnh truyền thống chưa muốn cởi trói của một số cơ quan chủ quản và chủ sở hữu, thì năng lực thực tế của không ít cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam hiện nay chưa thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu tự chủ đại học theo quy định bằng nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Trong khi hệ thống giáo dục đại học Việt Nam được cấu thành bởi nhiều bộ phận khác nhau, thì cho đến nay vẫn chưa có các văn bản quy định rõ ràng đối với cơ chế tự chủ đối với từng mô hình cụ thể này. Thực tế đó đòi hỏi ngoài việc hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về mặt quản lý nhà nước, thì các cơ quan chủ quản và chủ sở hữu cũng cần xác định một 335 mối quan hệ rõ ràng trong mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ đối với các chính các bộ phận cấu thành của mình theo nguyên tắc chức năng và nhiệm vụ. Cùng lúc đó, bản thân các cơ sở giáo dục đại học cũng phải phất đấu đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn cụ thể của cơ chế tự chủ theo quy định và từng bước khẳng định năng lực thực tế của mình trên bản đồ giáo dục đại học trong cũng như ngoài nước để triển khai mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ một cách lâu dài và bền vững. Tuy nhiên, năng lực tự giác, tự chủ động, và tự chịu trách nhiệm của người học cũng là một yếu tố không thể thiếu, trong khi sự tham gia của bên thứ ba ngày càng đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ của các trường đại học. Trong bối cảnh đó, tăng cường khả năng năng giải quyết việc làm của nền kinh tế, xây dựng mô hình đại học nghiên cứu, và chấp nhận sự giám sát của bên thứ ba là các nhân tố có tính chất quyết định cho thành công của mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ của các trường đại học Việt Nam trong thời gian tới. Mặc dù vậy, không bao giờ được phép nhầm lẫn giữa mục tiêu phục vụ cộng đồng của hệ thống giáo dục đại học tự chủ theo đúng bản chất của nó với mô hình quản trị theo cơ chế tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hạ Anh (2019), 2 đại học Việt Nam lọt tốp 1.000 bảng xếp hạng uy tín thế giới, trong: https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/tuyen-sinh/2-dai-hoc-viet-nam-lot-top-1- 000-bang-xep-hang-uy-tin-the-gioi-566880.html (truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020). 2. Nguyệt Anh (2018), Ngân sách cho giáo dục còn nhiều bất cập?, trong: https://baoquocte.vn/ngan-sach-cho-giao-duc-con-nhieu-bat-cap-81691.html (truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2020). 3. Hoàng Bách (2019), Hơn 100.000 cử nhân thất nghiệp và sự lãng phí tiền bạc, tuổi trẻ, trong: https://news.zing.vn/hon-100000-cu-nhan-that-nghiep-va-su-lang-phi-tien- bac-tuoi-tre-post1000476.html (truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020). 4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1993, ngày 14 tháng 1), Nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo, Số: 04-NQ/HNTW, ngày 14 tháng 1 năm 1993, Hà Nội. 5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2013, ngày 4 tháng 11), Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Số: 29-NQ/TW, ngày 4 tháng 11 năm 2013. 6. Lê Văn Bình và Hoàng Văn Liêm (2019), Giải pháp hoàn thiện cơ chế tự chủ tài chính tại Đại học Huế, Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Kinh tế và Phát triển, Tập 128, Số 5A, 2019, tr. 177-178 (169-185). 7. Chính phủ (1993, ngày 10 tháng 12), Nghị định của Chính phủ về việc thành lập đại học quốc gia Hà Nội, Số: 97/CP. ngày 10 tháng 12 năm 1993, Hà Nội. 8. Chính phủ (1994, ngày 4 tháng 4), Nghị định của Chính phủ Số 30-CP ngày 4-4- 1994 về việc thành lập Đại học Huế, Số: 30-CP, ngày 4 tháng 4 năm 1994, Hà Nội. 336 9. Chính phủ (1994, ngày 4 tháng 4), Nghị định của Chính phủ Số 31-CP ngày 4-4- 1994 về việc thành lập Đại học Thái Nguyên, Số: 31-CP, ngày 4 tháng 4 năm 1994, Hà Nội. 10. Chính phủ (1994, ngày 4 tháng 4), Nghị định của Chính phủ Số 32-CP ngày 4-4- 1994 về việc thành lập Đại học Đà Nẵng, Số: 32-CP, ngày 4 tháng 4 năm 1994, Hà Nội. 11. Chính phủ (1995, ngày 27 tháng 1), Nghị định Chính phủ Số: 16/CP ngày 27 tháng 1 năm 1995 về việc thành lập đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Số: 16-CP, ngày 27 tháng 1 năm 1995, Hà Nội. 12. Chính phủ (2014, ngày 24 tháng 10), Nghị quyết về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập giai đoạn 2014 – 2017, Số: 77/NQ-CP, ngày 24 tháng 10 năm 2014. 13. Công báo (2018, ngày 22 tháng 12), Số 1135 + 1136. 14. Đại học Huế (2016), Kế hoạch chiến lược phát triển Đại học Huế giai đoạn 2016- 2020 và tầm nhìn 2030, ban hành kèm theo Quyết định Số 1217/QĐ-ĐHH ngày 28 tháng 9 năm 2016, Huế. 15. Đại học Huế (2019), Đề án phát triển Đại học Huế thành đại học quốc gia, tháng 9 năm 2019, Thừa Thiên Huế. 16. Nguyễn Tấn Dũng (2007), Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006 - 2020, Số: 121/2007/QĐ-TTg, ngày 27 tháng 7 năm 2007, Hà Nội, trong: (truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2020). 17. Vũ Tiến Dũng, Cao Văn Đan, Lưu Xuân Công (2019), Mở rộng cơ chế tự chủ đại học ở Việt Nam, trong: chu-dai-hoc-o-viet-nam-28271.html (truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2020). 18. Minh Giảng (2019), Báo động chất lượng đại học - Kỳ 2: Khi cử nhân dạy đại học, trong: https://tuoitre.vn/bao-dong-chat-luong-dai-hoc-ky-2-khi-cu-nhan-day- dai-hoc-2019060909480538.htm (truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2020). 19. Thanh Hà (2019), Người giỏi đều tìm cách đi đào tạo ở nước ngoài, trong: https://tuoitre.vn/nguoi-gioi-deu-tim-cach-di-dao-tao-o-nuoc-ngoai- 20190323144323526.htm (truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2020). 20. Trịnh Vĩnh Hà và Trần Huỳnh (2010), Cơ sở vật chất các trường đại học, cao đẳng, trong: https://tuoitre.vn/co-so-vat-chat-cac-truong-dai-hoc-cao-dang- 411904.htm (truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2020). 21. Tăng Thu Hằng (2019), Tìm lời giải cho những tồn tại trong đầu tư giáo dục đào tạo nước ta, trong: dau-tu-giao-duc-dao-tao-nuoc-ta-n12552.html (truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2020). 22. Phan Huy Hùng (2005), Thiết lập môi trường cho sự vận hành tự chủ của hệ thống đậi học, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Số 4, tr. 216- 221. 337 23. Thanh Hùng (2019), Èo uột trường đại học tỉnh, trong: https://www.sggp.org.vn/eo-uot-truong-dai-hoc-tinh-611483.html (truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2020). 24. Trần Quang Huy và Phạm Thị Bích Ngọc (2016), Học hỏi của tổ chức trong bối cảnh tự chủ đậi học tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học Giáo dục, Số 127, tháng 4 năm 2016, tr. 1-9. 25. Trần Huỳnh (2019), Tỉ lệ người học đại học Việt Nam thuộc loại thấp nhất thế giới, trong: https://tuoitre.vn/ti-le-nguoi-hoc-dai-hoc-vn-thuoc-loai-thap-nhat-the- gioi-20190617134102003.htm (truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020). 26. Đào Văn Khánh (2004), Bàn về tự chủ và phân cấp quản lý đào tạo trong trường đại học, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Số 1, tr. 179-189. 27. L.Đ (2009), Năm 2020 Việt Nam sẽ có trường Đại học nằm trong top 200 thế giới?, trong: https://thethaovanhoa.vn/the-gioi/nam-2020-viet-nam-se-co-truong- dai-hoc-nam-trong-top-200-the-gioi-n2009020802011568.htm (truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020). 28. Thùy Linh (2018), Đại học địa phương và con đường khấp khểnh khó đi, trong: https://giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/dai-hoc-dia-phuong-va-con-duong-khap- khenh-kho-di-post186682.gd (truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2020). 29. Đỗ Đức Minh (2018), Cơ chế quản trị đại học tự chủ và yêu cầu hoàn thiện pháp luật tự chủ đại học ở Việt Nam, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học, Tập 34, Số 4, tr. 62-74. 30. Nguyễn Thị Yến Nam (2013), Bước đầu tìm hiểu về quản lí tài chính trong giáo dục đại học theo hướng tự chủ, Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM, Số 54, tr. 155-164. 31. Nguyễn Thị Nguyệt (2019), Cơ chế tự chủ tài chính của những đơn vị sự nghiệp công lập, trong: chinh-cua-nhung-don-vi-su-nghiep-cong-lap-60970.htm (truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2019). 32. Nguyễn Việt Phương (2019), Tăng cường tự chủ chương trình đào tạo – yếu tố căn bản nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học Việt Nam, Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 4 năm 2019, tr. 96-99, 123. 33. Quốc hội (2005, ngày 14 tháng 6), Luật Giáo dục của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam Số 38/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005, ngày 14 tháng 6 năm 2005, Hà Nội. 34. Quốc hội (2012, ngày 18 tháng 6), Luật Giáo dục đại học, Luật số: 08/2012/QH13, ngày 18 tháng 6 năm 2012, Hà Nội. 35. Quốc Hội (2018, ngày 22 tháng 12), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học (Luật số: 34/2018/QH14), Công báo, Số 1135 + 1136, tr. 85-86. 36. Quốc hội (2018, ngày 19 tháng 11), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học, Luật số: 34/2018/QH14, Ngày 19 tháng 11 năm 2018, Hà Nội. 37. Quốc hội (2019, ngày 16 tháng 6), Luật Giáo dục, Luật số: 43/2019/QH14, ngày 14 tháng 6 năm 2019, Hà Nội. 338 38. Trương Thanh Quý (2019), Tự chủ trong các trường đại học công lập ở Việt Nam: Thách thức và giải pháp, trong: trong-cac-truong-dai-hoc-cong-lap-o-Viet-Nam.aspx (truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2019). 39. Thanh tra Chính phủ (2015), Thông báo kết luận thanh tra Số 880/TB-TTCP về trách nhiệm trong việc tổ chức và thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ tại Đại học Huế, Hà Nội, ngày 16 tháng 4 năm 2015. 40. Thủ tướng Chính phủ (2003, ngày 30 tháng 7), Quyết định của Thủ tướng Chính phủ Số 153/2003/QĐ-TTG ngày 30 tháng 7 năm 2003 về việc ban hành “Điều lệ trường đại học,” Số: 153/2003/QĐ-TTg, ngày 30 tháng 7 năm 2003, Hà Nội. 41. Thủ tướng Chính phủ (2014, ngày 21 tháng 12), Điều lệ trường đại học (Ban hành kèm theo Quyết định Số 70/2014/QĐ-TTg ngày 10 tháng 12 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ), Công báo, Số 1075+1076. 42. Thủ tướng Chính phủ (2014, ngày 10 tháng 12), Quyết định ban hành Điều lệ trường Đại học, Số: 70/2014/QĐ-TTg, ngày 10 tháng 12 năm 2014, Hà Nội. 43. Trần Sông Thương (2018), Tự chủ tài chính giáo dục đại học và một số vấn đề đặt ra, trong: dai-hoc-va-mot-so-van-de-dat-ra-301206.html (truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2019). 44. Nguyễn Thu Thủy và Trần Tú Uyên (2019), 10 năm, số lượng công bố quốc tế của Việt Nam tăng gần 5 lần, trong: https://dantri.com.vn/giao-duc- khuyen-hoc/10-nam-so-luong-cong-bo-quoc-te-cua-viet-nam-tang-gan-5- lan-20190115081238291.htm (truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020). 45. Trường Đại học Hoa Lư (2019), Báo cáo Thực hiện Quy chế công khai năm học 2018-2029 và Kế hoạch triển khai Quy chế công khai năm học 2019- 2020, trong: (truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020). 46. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, đại học quốc gia Hà Nội (2019), Báo cáo ba công khai năm học 2019-2020, Số 4874/XHNV-KHTC, ngày 24 tháng 12 năm 2019, Hà Nội. 47. Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (2019), Thông báo Công khai tài chính của trường Đại học Kinh tế Quốc dân năm 2019-2020, Hà Nội. 48. Trường Đại học Phú Yên (2018), Công khai thông tin cơ sở vật chất của Trường Đại học Phú Yên, năm học 2018-2019, trong: khai/cong-khai-thong-tin-co-so-vat-chat-cua-truong-dai-hoc-phu-yen-nam-hoc- 2018-2019 (truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020). 49. Trường Đại học Quảng Nam (2018), Công khai thông tin Cơ sở vật chất của cơ sở giáo dục đại học năm học: 2017-2018, trong: (truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020). 339 50. Trường Đại học Quảng Nam (2019), Thông báo công khai thông tin chất lượng đào tạo thực tế của Trường Đại học Quảng Nam, Biểu mẫu 18A, trong: https://drive.google.com/file/d/12IGimBn1ThDY1t7p4n4WaIhJ1JzdDZjh/view (truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020). 51. Trường Đại học Quảng Nam (2019), Thông báo công khai thông tin cơ sở vật chất của Trường Đại học Quảng Nam, Biểu mẫu 19-D, trong: https://drive.google.com/file/d/1Nyjkpt3QdE9JEk46WBCrRfxrBoSJxd7m/v iew (truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020). 52. Trường Đại học Quảng Nam (2019), Thông báo công khai thông tin về đội ngũ giảng viên cơ hữu của Trường Đại học Quảng Nam, Biểu mẫu 20-A, trong: https://drive.google.com/file/d/1_xGQnp4_ekQ8rSLTav_A-Rp5Q3rZRqTt/view (truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2020). 53. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2019), Thông báo Công khai tài chính năm học 2018-2019, tr. 2, trong: https://hnue.edu.vn/Portals/0/Users/haind//Bieu%20214243281525112019.pdf (truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020). 54. Nguyễn Trọng Tuấn (2018), Quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học công lập ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sỹ Luật học, Ngành: Luật hiến pháp và Luật hành chính, Mã số: 9.38.01.02, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam. 55. Lê Văn (2017), Những con số "biết nói" về giáo dục đại học Việt Nam, trong: https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/tuyen-sinh/nhung-con-so-biet-noi-ve-giao-duc- dai-hoc-viet-nam-389870.html (truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2020). 56. Lê Vân (2019), Trường đại học địa phương loay hoay tìm hướng phát triển, trong: https://baotintuc.vn/giao-duc/truong-dai-hoc-dia-phuong-loay-hoay-tim-huong- phat-trien-20190728234850639.htm (truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2020). 57. Văn phòng Chính Phủ (2018), Thông báo Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại buổi làm việc với Đại học Huế Số 38/TB-VPCP, ngày 24 tháng 1 năm 2018, Hà Nội. 58. Viện Khoa học Lao động và Xã hội và Tổ chức Lao động Quốc tế (2014), Lao động trình độ cao - Nhân tố quyết định để phát triển bền vững đất nước - Nhân tố quyết định để phát triển bền vững đất nước, Bản tin tóm tắt chính sách, Số 1 năm 2014, tr. 1-2. 59. Đoàn Xá (2019), Đìu hiu đại học địa phương, trong: duc/diu-hiu-dai-hoc-dia-phuong-tintuc444584 (truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2020).
File đính kèm:
- chinh_sach_tu_chu_dai_hoc_cua_nha_nuoc_va_nang_luc_thuc_te_c.pdf