Chính sách phát triển khoa học công nghệ cho ngành công nghiệp hỗ trợ trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
Trong những năm gần đây, sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) đang
được Nhà nước và các doanh nghiệp tại Việt Nam hết sức quan tâm đầu tư, đặc biệt, với sự ra
đời của Nghị định 111 về Phát triển CNHT, nhiều chính sách hỗ trợ và ưu đãi đã được quy
định tương đối cụ thể nhằm tạo những điều kiện tốt nhất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh
của DN CNHT. Trong bối cảnh mới của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đang
được hình thành trên thế giới, các chính sách phát triển khoa học công nghệ cho ngành
CNHT sẽ cần được hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi. Nội dung bài viết sẽ đi
từ tiếp cận bối cảnh của cuộc CMCN lần thứ tư, xem xét, đánh giá các tác động của cuộc
cách mạng này đến sự phát triển của ngành CNHT Việt Nam, từ đó, nghiên cứu, đánh giá các
chính sách khoa học công nghệ cho phát triển CNHT trong bối cảnh mới này. Phần cuối của
bài viết sẽ đưa ra một số đề xuất hoàn thiện chính sách khoa học công nghệ cho ngành CNHT
phù hợp với bối cảnh của CMCN 4.0.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách phát triển khoa học công nghệ cho ngành công nghiệp hỗ trợ trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 355 CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CHO NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Th.s Vũ Thị Thanh Huyền Bộ môn Kinh tế học, Đại học Thƣơng Mại TÓM TẮT Trong những năm gần đây, sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) đang được Nhà nước và các doanh nghiệp tại Việt Nam hết sức quan tâm đầu tư, đặc biệt, với sự ra đời của Nghị định 111 về Phát triển CNHT, nhiều chính sách hỗ trợ và ưu đãi đã được quy định tương đối cụ thể nhằm tạo những điều kiện tốt nhất cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN CNHT. Trong bối cảnh mới của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đang được hình thành trên thế giới, các chính sách phát triển khoa học công nghệ cho ngành CNHT sẽ cần được hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả thực thi. Nội dung bài viết sẽ đi từ tiếp cận bối cảnh của cuộc CMCN lần thứ tư, xem xét, đánh giá các tác động của cuộc cách mạng này đến sự phát triển của ngành CNHT Việt Nam, từ đó, nghiên cứu, đánh giá các chính sách khoa học công nghệ cho phát triển CNHT trong bối cảnh mới này. Phần cuối của bài viết sẽ đưa ra một số đề xuất hoàn thiện chính sách khoa học công nghệ cho ngành CNHT phù hợp với bối cảnh của CMCN 4.0. Từ khóa: Công nghiệp hỗ trợ (CNHT), chính sách, khoa học công nghệ, cách mạng công nghiệp 4.0 1. MỞ ĐẦU Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được cho là đã bắt đầu từ vài năm gần đây, tập trung chủ yếu vào sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ nano. Sự hình thành và phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 một mặt, sẽ đem lại sự phát triển mạnh mẽ của các công nghệ mới và rô bốt, mặt khác, có thể gây ra ảnh hưởng lớn đến cách thức sản xuất với một số ngành nghề tận dụng lợi thế lao động giá rẻ của Việt Nam, Trong bối cảnh đó, ngành sản xuất công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam với quy mô sản xuất nhỏ và vừa, áp dụng KHCN còn rất hạn chế, sẽ có thể đứng trước những thách thức lớn từ CMCN 4.0, đòi hỏi chính sách của Nhà nước cần có sự định hướng và hỗ trợ một cách đúng đắn, đặc biệt là các chính sách liên quan đến phát triển KHCN, từ đó, đặt ra vấn đề cần nghiên cứu và đánh giá các chính sách khoa học công nghệ cho phát triển CNHT nhằm thu được các lợi ích từ cách mạng công nghiệp. Mục tiêu nghiên cứu của bài viết là xem xét thực trạng quá trình xây dựng và thực thi các chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ cho phát triển ngành CNHT tại Việt Nam trong bối cảnh cuộc CMCN lần thứ tư đang trong giai đoạn hình thành trên thế giới với những cơ hội và thách thức đáng kể cho sự phát triển ngành CNHT trong nước. Từ đó, đưa ra đánh giá về ưu điểm và hạn chế của chính sách, đưa ra kết luận về cách thức hoàn thiện chính sách trong thời kỳ mới. Về phạm vi nghiên cứu: Nội dung bài viết sẽ tập trung vào nghiên cứu thực trạng các chính sách phát triển ngành CNHT của Việt Nam thời gian qua, đặc biệt liên quan đến cách chính sách về phát triển công nghệ ngành CNHT gắn với bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang nổi lên. Trong đó, liên quan đến khách thể nghiên cứu là ngành CNHT, bài viết chỉ tiếp cận khái niệm CNHT theo nghĩa hẹp, tập trung vào phân tích thực trạng phát triển đối với các ngành linh kiện phụ tùng (đặc biệt là linh kiện điện – điện tử, nhựa - cao su, kim loại) đối với các ngành chủ yếu là ngành điện tử, ô tô, xe máy. Về nguồn số liệu: Để làm rõ thực trạng phát triển ngành CNHT, bài viết sử dụng các số liệu thứ cấp từ nguồn Comtrade.org, Tổng cục thống kê, Trung tâm phát triển DN CNHT - Bộ Công thương. Để thống kê các chính sách phát triển CNHT Việt Nam, bài viết sử dụng các nguồn dữ liệu thứ cấp được cung cấp trên website của Chính phủ, Bộ Công thương. Về phƣơng pháp nghiên cứu: TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 356 Bài viết chủ yếu sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu để phân tích thực trạng quá trình tham gia cách mạng 4.0 của Việt Nam, những lợi ích và bất lợi khi tham gia; phân tích thực trạng phát triển CNHT và chính sách khoa học công nghệ cho phát triển CNHT; sử dụng phương pháp suy luận để đưa ra những đánh giá về những tác động của cách mạng 4.0 đến phát triển ngành CNHT. 2. NỘI DUNG 2.1. Tổng quan về cách mạng công nghiệp 4.0 và ngành công nghiệp hỗ trợ Tổng quan về cách mạng công nghiệp 4.0 Cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng trên lĩnh vực sản xuất, thể hiện sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa và kỹ thuật. Cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trải dài từ năm 1760 đến khoảng năm 1840. Bắt đầu bằng việc xây dựng các tuyến đường sắt và phát minh ra động cơ hơi nước, cuộc cách mạng này đánh dấu sự khởi đầu của kỷ nguyên sản xuất cơ khí. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai, diễn ra từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, với sản xuất hàng loạt, được thúc đẩy bởi sự ra đời của điện năng và dây chuyền lắp ráp. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba bắt đầu vào những năm ... cho vay với lãi suất thấp các dự án đổi mới, chuyển giao công nghệ. Mức cho vay tối đa là 70% tổng mức đầu tư của dự án nhưng không quá 10 tỷ đồng với thời hạn cho vay không quá 3 năm. Bên cạnh đó, năm 2011, Quỹ đổi mới công nghệ Quốc gia (NATIF) đã được thành lập theo Quyết định số 1342/QĐ-TTg, quy chế hoạt động của Quỹ được phê duyệt vào năm 2013 theo quyết định số 1051/QĐ-TTg và quỹ được ra mắt vào tháng 1/2015. Theo nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Mitsubishi và Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế trung ương (2015), trong năm 2015, NATIF tập trung chủ yếu vào các khoản tài trợ cho nghiên cứu, bao gồm cung cấp hỗ trợ tài chính cho Nghiên cứu và Phát triển, chuyển giao công nghệ, ươm mầm cho các doanh nghiệp khoa học và công nghệ, áp dụng công nghệ trong nông nghiệp và đào tạo. Mục tiêu chủ yếu của quỹ này là hỗ trợ doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động đổi mới công nghệ, thương mại hóa các kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 362 2.3. Đánh giá các tác động Như vậy, thông qua những phân tích ở trên, có thể thấy rằng, ngành CNHT Việt Nam hiện mới chỉ ở giai đoạn bắt đầu hình thành, số lượng doanh nghiệp sản xuất linh phụ kiện ít và mất cân đối lớn với số lượng doanh nghiệp lắp ráp, chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu của nhà lắp ráp, các tập đoàn đa quốc gia. Vì vậy, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, các doanh nghiệp sản xuất CNHT sẽ chịu một số các tác động như sau: Các tác đ ng đến sự phát triển của ngành CNHT Về tác động tích cực: Thứ nhất, khả năng thu hút vốn FDI, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng chất lượng cao từ để phát triển ngành CNHT trong nước. Cùng với sự phát triển nhanh chóng về công nghệ, sự thay đổi về phương thức sản xuất, hợp tác, kết nối trong sản xuất và kinh doanh theo xu hướng CMCN 4.0, các DN CNHT của Việt Nam có thể tận dụng để tiếp cận với các tiến bộ công nghệ tiên tiến trên thế giới một cách nhanh chóng, cũng như tăng cường khả năng tìm kiếm và thu hút các nguồn vốn đầu tư, nhân lực chất lượng cao, nhờ có hệ thống mạng kết nối toàn cầu. Thứ hai, CMCN 4.0 có khả năng thúc đẩy sự liên kết trên quy mô rộng lớn hơn, từ đó, tăng cường khả năng tham gia vào chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng với các nền kinh tế lớn trên thế giới và các quốc gia có CNHT phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thứ ba, khả năng tăng năng suất, hiệu quả sản xuất của ngành CNHT nhờ việc đổi mới về quy trình sản xuất, cơ cấu lại tổ chức, tại các doanh nghiệp sản xuất CNHT để phù hợp với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Thứ tư, các lực đẩy từ việc hoàn thiện chính sách, môi trường đầu tư, việc áp dụng các quy định về an toàn lao động, sẽ thúc đẩy việc nâng cao sức cạnh tranh cho doanh nghiệp và sản phẩm CNHT. Thứ năm, cùng với sự phát triển của CMCN 4.0, ngành CNHT Việt Nam sẽ tăng khả năng đáp ứng nhu cầu của các đối tượng khách hàng. Về tác động tiêu cực: Thứ nhất, yêu cầu thay đổi lớn về cách thức sản xuất, xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp với cách mạng 4.0 có thể là thách thức vô cùng lớn với các DN CNHT Việt Nam hiện nay. Do phần lớn các DN sản xuất CNHT tại Việt Nam hiện nay là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thiếu cả về vốn, công nghệ, cũng như các kỹ năng quản lý và điều hành sản xuất, vì vậy, yêu cầu thay đổi về cách thức sản xuất và xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở dữ liệu để đáp ứng với xu hướng 4.0 sẽ tác động tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN CNHT trong tương lai, nhiều DN có thể đứng trước nguy cơ phá sản nếu không có sự đổi mới phù hợp. Thứ hai, Lợi thế về lao động giá rẻ giảm, sự cắt giảm nhanh về nhu cầu lao động sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN CNHT tại Việt Nam. Thứ ba, sự cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn, trên phạm vi toàn cầu cùng với nguy cơ phá hủy đáng kể những chuỗi giá trị công nghiệp hiện có do sự xuất hiện những đối thủ cạnh tranh sáng tạo, nhanh nhạy nhờ tiếp cận với các nền tảng kỹ thuật số toàn cầu cho nghiên cứu, triển khai tiếp thị, bán hàng và phân phối, Thứ tư, những thách thức từ việc bảo mật thông tin. Do hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của Việt Nam còn nhiều hạn chế, vì vậy, cùng với việc tăng cường áp dụng công nghệ thông tin và hệ thống mạng internet vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh, có thể dẫn đến nhiều rủi ro của việc bị đánh cắp thông tin, đặc biệt là rò rỉ các thông tin tuyệt mật về hoạt động sản xuất của các DN CNHT. Đánh giá về hệ thống chính sách khoa học công nghệ phát triển Công nghiệp hỗ trợ trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 363 Thứ nhất, về thành tựu, có thể thấy rằng hiện nay chúng ta đã có một hệ thống các văn bản chính sách khoa học công nghệ liên quan đến phát triển CNHT với nhiều các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp, dự án sản xuất sản phẩm CNHT. Thứ hai, về hạn chế, hiện các chính sách khoa học công nghệ cho phát triển CNHT hiện vẫn chưa bám sát với bối cảnh mới của cuộc CMCN 4.0, chính sách phát triển sản xuất và đổi mới công nghệ ngành CNHT chưa được gắn với quá trình ứng dụng, đổi mới về công nghệ thông tin, ứng dụng hệ thống mạng internet vào quản lý và liên kết sản xuất. Thêm vào đó, bản thân hệ thống chính sách hiện hành vẫn còn rất nhiều hạn chế, cụ thể là: Một là, chính sách về khoa học công nghệ chưa đủ sức tạo ra hấp dẫn đối với các doanh nghiệp trong đầu tư, đổi mới công nghệ hiện đại trong sản xuất, DN sản xuất CNHT muốn đổi mới công nghệ phần lớn phải tự bỏ vốn hoặc tự tìm kiếm sự hỗ trợ từ bên ngoài, dẫn đến quá trình đổi mới, hiện đại hóa công nghệ diễn ra rất chậm tại các DN CNHT. Hai là, thiếu các văn bản, thông tư hướng dẫn tiếp cận các chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ cho DN và dự án sản xuất CNHT. Hiện các thông tư hướng dẫn mới chỉ dừng lại ở các chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, thiếu hẳn các thông tư hướng dẫn cụ thể để DN tiếp cận các chính sách hỗ trợ về KHCN, gây ra nhiều cản trở trong quá trình tiếp cận chính sách của DN. Ba là, trong nội dung các chính sách hỗ trợ công nghệ, chúng ta vẫn thiếu mảng tư vấn, hỗ trợ cho doanh nghiệp để phát triển công nghệ, cụ thể như: hỗ trợ về thử nghiệm sản phẩm, đào tạo, tư vấn để nắm bắt về công nghệ mới; thiếu các chính sách tăng cường liên kết, kết nối với các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia nhằm nắm bắt đúng xu thế công nghệ mới và các định hướng công nghệ sản xuất tại các tập đoàn, tổng công ty này; các trung tâm, hiệp hội hỗ trợ cho doanh nghiệp gần như không có đội ngũ nhân sự hiểu biết về công nghệ, thiếu máy móc thiết bị để kiểm định sản phẩm cho doanh nghiệp, (Theo Báo cáo kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Mitsubishi, Nhật Bản, 2016) Mặt khác, các chính sách liên quan đến hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực trong phát triển CNHT hầu như chưa được quan tâm thực hiện; chính sách hợp tác quốc tế trong chuyển giao công nghệ hầu như không được quan tâm triển khai, chủ yếu là DN CNHT tự mò mẫm, là nguyên nhân quan trọng dẫn đến DN khó có thể đẩy nhanh quá trình đổi mới về công nghệ phù hợp với xu hướng sản xuất hiện đại trên thế giới, cũng như cuộc cách mạng CN 4.0. 3. KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CHO PHÁT TRIỂN CNHT TRONG BỐI CẢNH CMCN 4.0 Tóm lại, trong những năm vừa qua, ngành CNHT của Việt Nam nhìn chung vẫn đang trong tình trạng bắt đầu hình thành, kém phát triển, các chính sách về khoa học công nghệ cho ngành CNHT vẫn chưa phát huy được tác dụng và hiệu quả, dẫn đến những thách thức cho ngành CNHT Việt Nam trong bối cảnh của cách mạng công nghiệp 4.0. Để tận dụng các cơ hội, khắc phục những tác động tiêu cực từ cách mạng CN 4.0, cũng như các hạn chế trong quá trình xây dựng, thực thi các chính sách về khoa học công nghệ cho phát triển CNHT, theo tác giả, trước mắt cần tập trung vào một số giải pháp như sau: Thứ nhất, tăng cường khả năng thực thi các chính sách hỗ trợ về khoa học công nghệ cho doanh nghiệp sản xuất CNHT thông qua việc nhanh chóng ban hành các chính sách, thông tư hướng dẫn chi tiết hơn nhằm cụ thể hóa các chính sách hỗ trợ về phát triển khoa học công nghệ cho DN CNHT. Thông qua hoạt động của các Trung tâm hỗ trợ, Hiệp hội DN CNHT để đưa chính sách gần hơn với DN sản xuất CNHT bằng các biện pháp trao đổi thông tin, hỗ trợ, tư vấn các điều kiện cần thiết để doanh nghiệp có thể tiếp cận chính sách. Thứ hai, nhanh chóng hoàn thiện, bổ sung nội dung chính sách phát triển khoa học công nghệ cho ngành CNHT gắn với xu thế của cuộc CMCN lần thứ tư. Trong đó, đặc biệt liên quan đến các chính sách khuyến khích phát triển công nghệ gắn với phát triển hệ thống công nghệ thông tin, ứng dụng mạng internet trong quản lý sản xuất, kinh doanh, tìm kiếm TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 364 khách hàng, Ngoài ra, nội dung chính sách khoa học công nghệ cho ngành CNHT cũng cần bổ sung, hoàn thiện các chính sách tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển khoa học công nghệ ngành CNHT trong bối cảnh CMCN 4.0, thúc đẩy sự liên kết, trao đổi thông tin về công nghệ giữa các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia với các DN sản xuất CNHT trong nước. Thứ ba, tạo điều kiện để tiếp nhận các chuyên gia đến từ các nước có ngành CNHT phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản, nhằm cung cấp các dịch vụ hướng dẫn về công nghệ, hướng dẫn về tiếp cận công nghệ mới, cũng như đào tạo, nâng cao trình độ về công nghệ cho đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp. Trong dài hạn, các trung tâm hỗ trợ, Hiệp hội cần nâng cấp về cơ sở vật chất cũng như trình độ chuyên môn để cung cấp các dịch vụ như kiểm định chất lượng sản phẩm CNHT cho doanh nghiệp, hỗ trợ xây dựng, hiện đại hóa công nghệ sản xuất, là cầu nối để thu hút đầu tư vào công nghệ cho các doanh nghiệp CNHT trong nước. Thứ tƣ, chú trọng phát triển nguồn nhân lực cho ngành CNHT. Trước mắt, tập trung vào một số sản phẩm linh phụ kiện cơ bản trong sản xuất CNHT như sản phẩm khuôn đúc, linh kiện điện tử, linh phụ kiện nhựa, kim loại; tập trung vào sản xuất sản phẩm CNHT cho một số ngành công nghiệp đang có tốc độ tăng trưởng khá, đóng góp lớn vào GDP Việt Nam trong những năm gần đây, như ngành điện tử, ô tô, xe máy. Một mặt, cần có chính sách thu hút đội ngũ chuyên gia, ví dụ như Nhật Bản hỗ trợ Việt Nam trong xây dựng ngành CNHT; mặt khác, chính sách cần tập trung hơn nữa trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực công nghiệp trong nước để tạo ra lực lượng nòng cốt cho phát triển CNHT, đáp ứng yêu cầu cung ứng cho các nhà lắp ráp trong nước và tham gia vào tiến trình CMCN 4.0. Việc đào tạo, nâng cao chất lượng nhân lực ngành Công nghiệp có thể được thực hiện thông qua hợp tác, liên kết với các tập đoàn lớn, đa quốc gia như Samsung; cần nâng cao hơn nữa tính liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp sản xuất, giữa doanh nghiệp sản xuất CNHT trong nước và các doanh nghiệp ngoài nước, đặc biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc, Thứ năm, chú trọng tới các chính sách thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo phân tích thực trạng phát triển của ngành CNHT Việt Nam, hiện số lượng các doanh nghiệp sản xuất CNHT còn rất ít, và phần lớn tập trung vào đối tượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là nhóm doanh nghiệp có tiềm lực vốn thấp, quy mô nhỏ, trình độ nhân lực không cao, do đó, khó có thể đầu tư vào công nghệ hiện đại và đổi mới phương thức sản xuất theo xu hướng CMCN 4.0. Vì vậy, trong giai đoạn đầu phát triển, ngành CNHT Việt Nam rất cần các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển công nghệ, tạo ra mối liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm CNHT. Để thu hút các dự án FDI vào sản xuất công nghiệp hỗ trợ, cần có các ưu đãi thích hợp đủ sức hấp dẫn, trong đó đặc biệt các tập đoàn đa quốc gia có vị thế là nhà cung cấp toàn cầu linh kiện và vật liệu. Đối với các doanh nghiệp FDI có qui mô vừa trở lên,thường có nguồn lực tương đối mạnh, vì vậy, một trong những ưu đãi mà họ quan tâm nhất khi đầu tư vào Việt Nam là ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp CNHT vừa và nhỏ của Nhật Bản có trình độ công nghệ và sản xuất rất cao cũng là đối tượng cần phải hướng tới để thu hút. Các doanh nghiệp này có qui mô vừa và nhỏ, họ cần có sự hỗ trợ và sẵn sàng về mặt hạ tầng như mặt bằng, hệ thống nhà xưởng, thủ tục hành chính...trong các cụm công nghiệp hỗ trợ. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 365 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1, Hoàng Văn Châu, chủ nhiệm đề tài (2010), Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam đến năm 2020, Báo cáo tổng kết đề tài cấp Nhà nước, trường ĐH Ngoại Thương Hà Nội, Hà Nội. 2, Chính phủ (2015), Nghị định số 111/2015/NĐ-CP Về phát triển CNHT. 3, Cục Thông tin KH&CN Quốc gia (2016), Tổng luận “Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4”, truy cập ngày 12/8/2017 tại trang web: %20lan%20thu%20tu.pdf. 4, Klaus Schwab (2016), Cuộc cách mạng công nghiệp Lần thứ tư. 5, Mitsubishi Research Institute & Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương (2016), Enhancement of Vietnamese Supporting Industries, Báo cáo nghiên cứu, Hà Nội, Việt Nam. 6, Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định Số: 68/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025. 7, Trung tâm Phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (2015), Niên giám về Công nghiệp hỗ trợ các ngành chế tạo Việt Nam 2014 – 2015, Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công nghiệp, Bộ Công thương. 8, Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016), Tác động của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tới Việt Nam, truy cập ngày 24/8/2017 tại trang web: aspx?newid=18864. 9, UN comtrade data, THE SCIENCE AND TECHNOLOGY POLICY FOR DEVELOPING THE SUPPORTING INDUSTRY IN VIET NAM IN THE CONTEXT OF THE INDUSTRIAL REVOLUTION Abstract: In recent years, the development of the supporting industry has been paid great attention by the State and enterprises in Vietnam, especially with the introduction of Decree 111 on Development SI, many support policies and incentives have been specified relatively specific to create the best conditions for production and business activities of SI. In the new context of the industrial revolution 4.0 (CMCN 4.0) is being formed around the world, the science and technology development policy for SI will need to be improved and further improved performance. The content of the article will go from the contextual perspective of the fourth CMC, reviewing, assessing the impact of this revolution on the development of the SI industry in Vietnam, from which, study and evaluate the Science and technology policy for the development of SI in this new context. The final section of the paper will provide some suggestions for finalizing science and technology policy for SI in line with the context of CMCN 4.0. Keywords: supporting industry, the science technology policy, industrial revolution 4.0
File đính kèm:
- chinh_sach_phat_trien_khoa_hoc_cong_nghe_cho_nganh_cong_nghi.pdf