Chính sách đổi mới sáng tạo của một số nước châu Á và hàm ý chính sách cho Việt Nam
Đổi mới sáng tạo (ĐMST) (innovation) có thể được định nghĩa là kết quả của “sự
kết hợp mới” giữa kiến thức, năng lực và nguồn lực (Schumpeter, 1934). Khác với
sáng chế (invention), được định nghĩa là “một ý tưởng mới lạ về cách thực hiện mọi
việc”, ĐMST là một khái niệm bao gồm những gì được “thực hiện trong thực tế”. Góc
nhìn này có điểm chung là tạo ra điều gì đó mới mẻ; tuy nhiên, liệu các ý tưởng mới
có được thực hiện về mặt kinh tế và xã hội hay không lại khác nhau. ĐMST cũng bao
gồm ĐMST sản phẩm và ĐMST quy trình. Do đó, nghiên cứu ĐMST đã được liên kết
với khoa học và công nghệ (KH&CN), tập trung vào các tổ chức quản lý các hoạt
động ĐMST và về “sự đồng phát triển của công nghệ và thể chế” đòi hỏi các hệ thống
mới phù hợp với công nghệ mới (Nelson & Sampat, 2001).
Các chính sách ĐMST đã được xác định theo nhiều cách khác nhau vào các thời
điểm khác nhau và các động lực khác nhau. Một số chính sách này có thể liên quan
đến sự thay đổi thuật ngữ. Ví dụ, phần lớn những gì được gọi là chính sách ĐMST
ngày nay thực ra trước đây được đưa ra dưới chính sách công nghiệp, khoa học,
nghiên cứu hoặc công nghệ. Về mặt này, các chính sách ĐMST là khái niệm rộng hơn
các chính sách công nghệ hiện có, được định nghĩa là “các chính sách liên quan đến sự
can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế với mục đích ảnh hưởng đến quá trình ĐMST
công nghệ.” Chính sách ĐMST phải coi ĐMST là một quan điểm tổng thể và rộng
ngoài sáng chế (Edler & Fagerberg, 2013). Ngoài các mục tiêu kinh tế, nó còn tìm
cách tích hợp KH&CN với sự xuất hiện của các mục tiêu chính sách mới, chẳng hạn
như cải thiện chất lượng cuộc sống, nâng cao tính bền vững và hội nhập xã hội. Do
đó, các chính sách ĐMST có thể được chia thành 3 dạng, đó là các chính sách theo
định hướng sứ mệnh, sáng chế và hệ thống (Edler & Fagerberg, 2013).
Các chính sách định hướng sứ mệnh có thể được mô tả như một khoa học lớn
cung cấp các giải pháp cho các vấn đề xã hội thực tế và cụ thể. Đặc điểm nổi bật của
các chính sách này là tính tập trung. Các nhà hoạch định chính sách tập trung vào một
số công nghệ, chẳng hạn như hàng không vũ trụ, điện tử và năng lượng hạt nhân. Hơn
nữa, các nhà hoạch định chính sách đã áp dụng các chính sách như vậy từ rất lâu trước
khi có chính sách ĐMST, ví dụ, vì mục đích quốc phòng. Nhiều ĐMST quan trọng
mang lại hiệu quả kinh tế to lớn là kết quả của các chính sách này.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính sách đổi mới sáng tạo của một số nước châu Á và hàm ý chính sách cho Việt Nam
Tổng luận số 1/2021 CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM 1 Mục lục Lời giới thiệu ..................................................................................................... 2 I. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI SÁNG TẠO ............. 3 1.1. Định nghĩa chính sách đổi mới sáng tạo ................................................... 3 1.2. Sự cần thiết của chính sách đổi mới sáng tạo ........................................... 4 1.3. Các công cụ của chính sách đổi mới sáng tạo ........................................... 6 1.4. Tác động của các công cụ chính sách đổi mới sáng tạo ............................ 8 1.5. Quản lý/quản trị chính sách đổi mới sáng tạo ........................................... 9 II. CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á ... 10 2.1. Nhật Bản ................................................................................................ 10 2.2. Hàn Quốc ............................................................................................... 16 2.3. Trung Quốc ............................................................................................ 22 2.4. Ấn Độ .................................................................................................... 30 2.5. Malaysia ................................................................................................ 36 2.6. Thái Lan ................................................................................................ 42 KẾT LUẬN - HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM ............................... 47 Tài liệu tham khảo chính .................................................................................. 52 2 Lời giới thiệu Những năm gần đây, nhiều học thuyết đã được đề ra để giải thích nguyên nhân một số quốc gia đã “công nghiệp hóa và bắt kịp” thành công và hiện giờ họ đang trong “giai đoạn hậu bắt kịp” và là vươn lên hàng đầu trong ĐMST ở quy mô toàn cầu (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc), trong khi nhiều quốc gia khác (như Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Việt Nam) chưa bứt phá được hoặc thậm chí “mắc kẹt” trong giai đoạn “công nghiệp hóa và bắt kịp”. Một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến sự khác biệt ở hai nhóm quốc gia trên chính là việc việc xây dựng và thực hiện thành công chính sách đổi mới sáng tạo (ĐMST). Trung Quốc đã thành công với khái niệm “ĐMST nội sinh/bản địa”, Hàn Quốc đã bước sang giai đoạn “nền kinh tế ĐMST” (Innovation Economy hay Innovation-Based Economy, cũng gọi là Innovation - Driven Economy, lấy ĐMST làm động lực). Sự thành công trong ĐMST ở ba nước trên cũng cho thấy lý do tại sao cần có các chính sách ĐMST. Là một phần của chính sách công và rộng hơn chính sách công nghệ, các chính sách ĐMST là cần thiết để khắc phục các lỗi về thị trường, năng lực và hệ thống. Chính sách ĐMST có nhiều công cụ khác nhau, mục tiêu và tác dụng của mỗi công cụ cũng khác nhau ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn phát triển, từ tiền công nghiệp hóa, công nghiệp hóa và bắt kịp, đến hậu bắt kịp đều có những chính sách ĐMST đặc thù mà Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc cùng áp dụng và họ đều công nghiệp hóa và bắt kịp thành công. Để giúp bạn đọc có thêm thông tin về chính sách ĐMST ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và một số nước châu Á khác, thông qua phân tích chính sách ĐMST đã giúp những nước thành công trong công nghiệp hóa và bắt kịp, cũng như bài học từ những nước tụt hậu, từ đó đưa ra một số hàm ý chính sách về ĐMST cho Việt Nam để bứt phá trong giai đoạn hiện nay, Cục Thông tin khoa học và công nghệ quốc gia biên soạn tổng luận “CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI SÁNG TẠO CỦA MỘT SỐ NƯỚC CHÂU Á VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM”. Xin trân trọng giới thiệu. CỤC THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ QUỐC GIA 3 I. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH ĐỔI MỚI SÁNG TẠO 1.1. Định nghĩa chính sách đổi mới sáng tạo Đổi mới sáng tạo (ĐMST) (innovation) có thể được định nghĩa là kết quả của “sự kết hợp mới” giữa kiến thức, năng lực và nguồn lực (Schumpeter, 1934). Khác với sáng chế (invention), được định nghĩa là “một ý tưởng mới lạ về cách thực hiện mọi việc”, ĐMST là một khái niệm bao gồm những gì được “thực hiện trong thực tế”. Góc nhìn này có điểm chung là tạo ra điều gì đó mới mẻ; tuy nhiên, liệu các ý tưởng mới có được thực hiện về mặt kinh tế và xã hội hay không lại khác nhau. ĐMST cũng bao gồm ĐMST sản phẩm và ĐMST quy trình. Do đó, nghiên cứu ĐMST đã được liên kết với khoa học và công nghệ (KH&CN), tập trung vào các tổ chức quản lý các hoạt động ĐMST và về “sự đồng phát triển của công nghệ và thể chế” đòi hỏi các hệ thống mới phù hợp với công nghệ mới (Nelson & Sampat, 2001). Các chính sách ĐMST đã được xác định theo nhiều cách khác nhau vào các thời điểm khác nhau và các động lực khác nhau. Một số chính sách này có thể liên quan đến sự thay đổi thuật ngữ. Ví dụ, phần lớn những gì được gọi là chính sách Đ ... ứ hai hoặc nội chiến. Do đó, ổn định chính trị và công nghiệp hóa là điều kiện tiên quyết để bắt kịp thành công. Về mặt này, Việt Nam luôn đảm bảo ổn định chính trị và vấn đề còn lại là làm sao có được chính sách ĐMST bứt phá trong giai đoạn công nghiệp hóa và bắt kịp. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu, phổ biến và nội địa hóa các công nghệ tiên tiến Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu các công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, phổ biến chúng cho các khu vực tư nhân và khuyến khích các công ty bản địa nội bộ hóa chúng theo cách thức do chính phủ lãnh đạo. Đặc biệt, Nhật Bản và Hàn Quốc sử dụng các khoản nợ nước ngoài thay vì FDI để nhập khẩu công nghệ nước ngoài, đảm bảo sự độc lập về công nghệ của họ với các công ty đa quốc gia. Ngược lại, Trung Quốc tích cực sử dụng FDI, với lợi thế thị trường lớn, để có được công nghệ nước ngoài bằng cách thành lập liên doanh với các công ty bản địa, dẫn đến việc chuyển giao hiệu quả công nghệ của các công ty nước ngoài cho các công ty Trung Quốc. Tóm lại, đầu tư FDI, liên doanh hay nợ nước ngoài là không quan trọng, mà điều quan trọng là các nước đang phát triển phải tích cực yêu cầu các công ty đa quốc gia chuyển giao công nghệ của họ cho các nước đang phát triển ở mức độ nào. Về phổ biến và nội nội địa hóa công nghệ, cả ba quốc gia trên đều áp dụng cùng một phương pháp, trong đó nhấn mạnh vai trò của các viện nghiên cứu công (PRI) với tư cách là người phát triển và chuyển giao công nghệ giữa chính phủ và các công ty. Đặc biệt, Chính phủ Hàn Quốc đã trợ cấp R&D cho các PRI, và đổi lại, các PRI đã phát triển các công nghệ công nghiệp và chuyển giao chúng sang cho các chaebols của Hàn Quốc để thương mại hóa. Sau đó, các chaebols đã đầu tư tiền với chính phủ vào các dự án R&D quốc gia quy mô lớn và thực hiện các hoạt động R&D với các PRI và phát triển công nghệ. Ngoài ra, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc thường bảo vệ các công ty trong nước trước các công ty đa quốc gia để nội địa hóa công nghệ của các công ty trong nước. Ở Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, khả năng phát triển công nghệ của các PRI là có, tuy nhiên, năng lực của họ trong việc phổ biến công nghệ cho khu vực tư nhân dường như còn thiếu. Các công ty của các quốc gia này cũng yếu kém về năng lực nội địa hóa các công nghệ tiên tiến. Cũng như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan và Malaysia, Việt Nam cũng có các PRI có khả năng phát triển công nghệ, nhưng như thế là chưa đủ. Do đó, để bứt phá thành công trong giai đoạn công nghiệp hóa và bắt kịp này thì Việt Nam cần làm tốt chu trình tiếp thu, phổ biến và nội địa hóa công nghệ tiên tiến. Khuyến khích hợp tác giữa các khu vực viện nghiên cứu – doanh nghiệp (ngành công nghiệp) - trường đại học 49 Sự tương tác và hợp tác mạnh mẽ giữa các khu vực viện nghiên cứu – ngành công nghiệp - trường đại học là cách tốt nhất để tạo vòng tròn hiệu quả của chu trình tiếp thu – phổ biến - nội địa hóa công nghệ tiên tiến. Vì mỗi bên trong số ba bên có nguồn lực và điều kiện khác nhau. Các PRI có thể tập trung vào nghiên cứu cơ bản nhờ có đủ nguồn lực và ít áp lực hơn trong việc tạo ra lợi nhuận so với các công ty. Mặt khác, doanh nghiệp bắt buộc phải nghiên cứu ứng dụng vì áp lực rất lớn của việc thương mại hóa nhanh chóng để tạo ra lợi nhuận. Trường đại học không có bất kỳ áp lực nào về việc tạo ra lợi nhuận nhưng không có đủ cơ sở vật chất và thiết bị để thực hiện một dự án R&D lớn so với các dự án của PRI. Do đó, chỉ khi ba bên này hợp tác, họ mới có thể liên tục cải tiến công nghệ của mình và nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp bản địa bằng cách sử dụng hiệu ứng tổng hợp xảy ra giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, và giữa các PRI, trường đại học và ngành công nghiệp. Tăng cường đầu vào ĐMST, chi tiêu cho R&D, và nguồn nhân lực R&D Các chỉ số về thực hiện ĐMST cho thấy Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc có mức đầu tư vào chi cho R&D, nguồn nhân lực R&D cao hơn so với các quốc gia khác. Với đầu vào ĐMST ở mức cao, như hệ quả, cả ba quốc gia đều đạt được đầu ra ĐMST cao hơn đáng kể so với các quốc gia khác. Về chi tiêu cho R&D, Hàn Quốc cao nhất với 4,5% GDP vào năm 2018, tiếp theo là Nhật Bản và Trung Quốc với lần lượt là 3,2% và 2,1% GDP trong cùng năm. Ngược lại, nhiều quốc gia còn lại, ngoại trừ Malaysia và Thái Lan, có chi tiêu cho R&D dưới 1% GDP. Có thể thấy, Việt Nam cũng như Indonesia, Malaysia và Thái Lan luôn thiếu nguồn nhân lực R&D, cũng như mức tiêu cho R&D thấp, đó là nguyên nhân và hệ quả tự nhiên, tức là đầu vào ở mức thấp hơn mang lại kết quả thấp. Do đó, để gia tăng các kết quả ĐMST, cần đầu tư vào các yếu tố đầu vào ĐMST, như bồi dưỡng các nhà nghiên cứu và kỹ thuật, tăng chi tiêu cho R&D. Trung Quốc đã thành công trong việc tăng chi tiêu cho R&D liên tục và họ đã đạt được mức chi cho R&D của các nước EU. (2) Vai trò của Chính phủ Vai trò của chính phủ trong quá trình hoạch định các chính sách ĐMST là vô cùng quan trọng. Chính phủ có thể thay đổi vai trò của mình theo giai đoạn phát triển kinh tế. Đối với Việt Nam hiện nay, theo kinh nghiệm của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc, Chính phủ cần phải đóng vai trò là nhà cung cấp và điều tiết để tăng năng lực ĐMST của quốc gia. Tuy nhiên, sau khi năng lực ĐMST, năng lực nội địa hóa các công nghệ tiên tiến của khu vực tư nhân, doanh nghiệp trở nên mạnh, chính phủ nên đóng vai trò là người điều phối để thúc đẩy một môi trường nơi khu vực tư nhân có thể tự mình tạo ra ĐMST. Bên cạnh đó, chính phủ cần có năng lực để nắm bắt và hiện thực hóa cơ hội khi cánh cửa cơ hội mở ra. Chính phủ cũng có thể thiết lập một chiến lược tập trung và lựa chọn, và chiến lược đường vòng dựa trên việc xác định chính xác các nguồn lực và năng lực quốc gia. Để thành công trong công nghiệp hóa và bắt kịp, Nhật Bản và Hàn Quốc đã sử dụng chính sách do chính phủ định hướng. Mặc dù Trung Quốc đã sử dụng cùng một chiến lược, nhưng trong điều kiện hệ thống chính trị tương đối khác. Chính phủ Nhật Bản và Hàn Quốc ban đầu đã đầu tư những nguồn vốn khổng lồ vào việc thành lập các trường đại học, đặc biệt là tăng cường các khoa kỹ thuật và khoa học của các trường đại học, xây dựng các PRI, bồi dưỡng và phân bổ nhân tài KH&CN. Họ cũng lên kế 50 hoạch cho các dự án R&D quốc gia và buộc các công ty bản địa, PRI và các trường đại học tham gia vào các dự án này thông qua các hỗ trợ tài chính và các biện pháp khuyến khích khác nhau để tăng cường năng lực công nghệ trong nước. Họ cũng thành lập các khu khoa học hoặc cụm công nghiệp khác nhau để xây dựng một hệ sinh thái ĐMST và hình thành các quy định khác nhau nhằm thúc đẩy hoạt động R&D của các công ty bản địa. Khi bắt đầu công nghiệp hóa và bắt kịp, cả hai chính phủ Nhật Bản và Hàn Quốc đều cung cấp và quy định mọi thứ để tăng năng lực ĐMST của quốc gia. Tuy nhiên, sau khi tích lũy được năng lực công nghệ của các công ty bản địa, họ đã thay đổi vai trò từ các nhà cung cấp và cơ quan quản lý thành người điều phối và thúc đẩy. Họ giao lại cho khu vực tư nhân các chức năng tài trợ và điều tiết các hoạt động R&D. Vai trò của cả hai chính phủ đều phát triển tùy theo mức độ năng lực ĐMST của quốc gia. Bằng chứng rõ ràng nhất về sự tiến hóa này là việc chi tiêu công cho R&D giảm hẳn. Ví dụ, chi tiêu cho R&D tư nhân của Hàn Quốc bắt đầu vượt qua chi tiêu cho R&D khu vực công từ những năm 1980. Năm 2018, tỷ lệ chi tiêu cho R&D của tư nhân và công của Hàn Quốc là 78:22, của Nhật Bản là 79:21, ở Trung Quốc 76:24. Ấn Độ, Indonesia và Malaysia có tỷ lệ chi tiêu cho R&D công cao hơn so với chi tiêu cho R&D của tư nhân. Mặc dù các quốc gia này đã đạt được thành công lớn trong một số ngành cụ thể, nhưng họ vẫn chưa đạt được giai đoạn bắt kịp thành công vì các doanh nghiệp bản địa của họ vẫn dựa nhiều vào sự hỗ trợ của chính phủ hơn là tự xây dựng năng lực công nghệ thông qua hoạt động R&D. Đây cũng là kinh nghiệm cho Việt Nam và để tăng tốc bứt phá trong giai đoạn công nghiệp hóa và bắt kịp, Chính phủ cần tăng cường hơn nữa vai trò là người tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước tăng chi tiêu cho R&D. Tối ưu hóa các cơ hội Khái niệm cửa sổ cơ hội đề cập đến ý tưởng được trình bày bởi Perez và Soete (1988), những người đã nhận thấy rằng một mô hình kinh tế - kỹ thuật mới (ví dụ, sự xuất hiện của công nghệ kỹ thuật số và tự do hóa thương mại) có thể là một cơ hội tuyệt vời cho những người/nước đi sau tham gia vào các lĩnh vực mới. Các cánh cửa cơ hội cũng nảy sinh khi có sự thay đổi trong chu kỳ kinh doanh (tức là suy thoái hoặc tăng trưởng) và thay đổi về quy định hoặc sự can thiệp của chính phủ (ví dụ: bãi bỏ quy định). Các trường hợp bắt kịp thành công tận dụng cơ hội một cách hiệu quả. Chúng ta có thể thấy những trường hợp đó trong các dịch vụ CNTT của Ấn Độ (thay đổi mô hình kinh doanh dịch vụ CNTT và thay đổi chính sách của chính phủ về tự do hóa các công ty nước ngoài), TV kỹ thuật số và thiết bị di động của Hàn Quốc (sự xuất hiện của công nghệ kỹ thuật số) và các ngành công nghiệp trò chơi trực tuyến của Trung Quốc (chính phủ can thiệp vào các công ty nước ngoài không cho phép các công ty nước ngoài là nhà xuất bản). Do đó, Việt Nam nên lường trước các cửa sổ cơ hội sẽ như thế nào và xác định phương pháp hiệu quả nhất. (3) Tạo một thể chế tốt hơn Điều cần thiết là phải đưa ra các chính sách ĐMST xuất sắc, nhưng cũng cần phải phối hợp các chính sách của nhiều bộ và cơ quan công quyền một cách thống nhất. Chính sách ĐMST cũng cần có khả năng thực thi hiệu quả và phản ánh các xu hướng chính sách mới nhất. Tất cả những điều này đều được đưa vào thể chế; do đó, chúng ta 51 nên cố gắng tạo ra một thể chế tốt hơn, như thông qua việc thành lập một cơ quan quản lý điều phối mạnh mẽ và tăng cường thực thi pháp luật. Để thực hiện tổ chức ở cấp cao được suôn sẻ, cần có một bộ chuyên trách về ĐMST, với tư cách là ban thư ký, để thu thập và trao đổi tất cả thông tin và ý kiến liên quan đến chính sách ĐMST giữa các cơ quan, các bộ và chính quyền địa phương. Hàn Quốc đã trao các vai trò rộng lớn (tức là lập kế hoạch, xem xét lại, điều chỉnh, lập ngân sách) và quyền lực lớn cho Bộ KH&CN và Văn phòng ĐMST KH&CN (OSTI) bằng cách nâng cấp Bộ trưởng Bộ KH&CN lên Phó Thủ tướng và được trao quyền toàn diện, chẳng hạn như lập kế hoạch, cân nhắc, điều chỉnh và lập ngân sách. Ngoài ra, Tổng thống cũng là Chủ tịch Hội đồng chính sách KH&CN quốc gia để điều chỉnh tất cả các bộ. Trong chính quyền của Roh Moo-hyun, Hàn Quốc có hệ thống quản trị chính sách ĐMST mạnh nhất tập trung vào Bộ KH&CN. Điều này khiến Hệ thống quản trị chính sách ĐMST của Hàn Quốc hoạt động tốt với sự phối hợp chặt chẽ và nhất quán. Nhật Bản cũng có Bộ Thương mại Quốc tế và Công nghiệp (MITI) (sau đó đổi thành Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp) như một bộ chuyên trách. MITI đã trao quyền lực đáng kể cho cơ quan điều phối cấp cao là Hội đồng KH&CN (sau đó được đổi thành Hội đồng về chính sách KH&CN và sau đó là Hội đồng về STI), bằng cách đặt tổ chức này trực thuộc Văn phòng Nội các. Nhiều nước khác đã ngày cành coi trọng các chính sách ĐMST thông qua đổi tên thành Bộ Khoa học, Công nghệ và ĐMST như các nước Malaysia (MOSTI), Brazil, Argentina, New Zealand, Tây Ban Nha Xây dựng khuôn khổ pháp lý để thực hiện hiệu quả các chính sách ĐMST: Nhật Bản và Hàn Quốc đã ban hành Luật về Khoa học và Công nghệ lần lượt vào năm 1995 và 2001. Trên cơ sở này, cả hai quốc gia đã thành lập Kế hoạch cơ bản về Khoa học và Công nghệ (STBP) 5 năm để giải quyết các thách thức mới nảy sinh từ giai đoạn sau bắt kịp, cung cấp hướng dẫn tổng thể để thực hiện các chính sách STI và nâng cao hiệu lực thực thi các chính sách. Hàn Quốc đã quan sát thấy sự thành công lớn của khung pháp lý KH&CN Nhật Bản, là luật KH&CN và các kế hoạch KH&CN. Với Luật KH&CN và Kế hoạch KH&CN 5 năm, Hàn Quốc cũng đã đạt được hiệu quả thực hiện cao các chính sách ĐMST với tính nhất quán theo kế hoạch. Ngược lại, Ấn Độ coi KH&CN là một trong những công cụ thiết yếu để phát triển kinh tế sớm hơn nhiều so với các nước khác và đã công bố các tuyên bố chính sách về KH&CN quan trọng ít nhất bốn lần. Tuy nhiên, nước này không thể thực hiện các chính sách ĐMST theo kế hoạch vì chủ yếu dựa vào tuyên bố chính sách hơn là khung pháp lý, dẫn đến không có chính sách ràng buộc về mặt pháp lý. Từ trường hợp thành công và không thành công này, Việt Nam cần xem xét một khuôn khổ pháp lý, các chính sách ĐMST với tính nhất quán theo kế hoạch, cung cấp hướng dẫn tổng thể để thực hiện các chính sách STI và nâng cao hiệu lực thực thi các chính sách này. Trung tâm Thông tin và Thống kê KH&CN 52 Tài liệu tham khảo chính 1. Building a national innovation system: What can we learn from Korea? Kwang Wook Gang and Pier Abetti, 9/2012. 2. Evolution of Science and Technology Policy in Korea. Working paper, Choi, Y-R. 2003. 3. Global Innovation Index 2020, WIPO. 4. How China Creates the Strongest Innovation System, BMI Think Tank, 12/2017. 5. Innovation Policy in Asia, Taeyoung Park and Junyun Kim, February 2020. 6. Japanese Science and Technology Indicators 2019, National Institute of Science and Technology Policy, MEXT, 11/2019. 7. Japan’s Innovation Systems at the Crossroads: Society 5.0, Digital AsiaCarraz, R. and Y, Harayama. 2018. 8. Japan's Science & Technology Innovation Policy and Implementation System. Science and Technology Policy, Choi, H. 2017. 9. Innovation Policy in ASEAN, Economic Research Institute for ASEAN and East ASIA(ERIA), Damuri, Yose, Haryo Aswicahyono, and David Christian. 2018. 10. Innovation policy: what, why, and how. Oxford Review of Economic Policy, Edler, J. and J. Fagerberg. 2017. 11. India’s Innovation Strategy: Technology Vision 2035, Industrial Policy for the Future, and Manufacturing Industry Promotion Policy, Korea Institute for Advancement of Technology (KIAT), 2017. 12. India’s Science, Technology and Innovation Policy: Choices for Course Correction with Lessons Learned from China, Sandhya, G. D. 2018. 13. Mission-Oriented STI Policies in Korea, YongsukJang, Ph.D, 12/2018. 14. OECD Reviews of Innovation Policy: CHINA. Paris: OECD Publishing, OECD. 2018. 15. Science & Technology Indicators of Korea, Volume 2019-1. 16. The 5th Science and Technology Foresight (2016-2040), Korea Institute of S&T Evaluation and Planning (KISTEP), 4/2017. 17. The National Innovation System of Japan, Oona Palmer, Uma Ilavarasan, Ella Mead, Ryan Keithahn, and Alyse Cronk Economics 354, 4/2018. 18. The Global Competitiveness Report 2019, WEF. 19. The Japanese Science, Technology, and Innovation Policy, Iwamatsu, J. 2016. 20. The Art of Economic Catch-up: Barriers, Detours and Leapfrogging in Innovation Systems, New York: Cambridge University Press, Lee, K. 2019.
File đính kèm:
- chinh_sach_doi_moi_sang_tao_cua_mot_so_nuoc_chau_a_va_ham_y.pdf