Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp

Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ trên

toàn thế giới, vấn đề xây dựng và triển khai hiệu quả chính phủ quản lý điện tử nói chung

và đối với doanh nghiệp (government-to-business (G2B)) nói riêng đã và đang là một

trong những vấn đề được chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm. Trên cơ sở khái niệm và

mô hình phát triển của chính phủ quản lý điện tử, kết hợp với nguồn số liệu phỏng vấn

sâu 9 nhà lãnh đạo doanh nghiệp ở TP HCM và số liệu thứ cấp từ các nguồn báo cáo

công khai của Chính phủ cũng như từ Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, bài viết

này đã phân tích thực tế việc sử dụng dịch vụ G2B của các các doanh nghiệp Việt Nam.

Ngoài ra, nhận định của doanh nghiệp về hiệu quả và những trở ngại chính khi sử dụng

các dịch vụ G2B cũng được thu thập và phân tích. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số

giải pháp nhằm hoàn thiện dịch vụ G2B cho chính phủ Việt Nam trong thời gian tới.

Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp trang 1

Trang 1

Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp trang 2

Trang 2

Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp trang 3

Trang 3

Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp trang 4

Trang 4

Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp trang 5

Trang 5

Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp trang 6

Trang 6

Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp trang 7

Trang 7

Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp trang 8

Trang 8

Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp trang 9

Trang 9

Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang baonam 30440
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp

Chính phủ quản lý điện tử đối với doanh nghiệp ở Việt Nam: Mô hình lý thuyết, thực trạng và giải pháp
 3 
CHÍNH PHỦ QUẢN LÝ ĐIỆN TỬ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP Ở 
VIỆT NAM: MÔ HÌNH LÝ THUYẾT, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 
GS. TS. Nguyễn Đông Phong 
TS. Lê Nhật Hạnh 
Trường Đại học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh 
Tóm tắt 
 Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra mạnh mẽ trên 
toàn thế giới, vấn đề xây dựng và triển khai hiệu quả chính phủ quản lý điện tử nói chung 
và đối với doanh nghiệp (government-to-business (G2B)) nói riêng đã và đang là một 
trong những vấn đề được chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm. Trên cơ sở khái niệm và 
mô hình phát triển của chính phủ quản lý điện tử, kết hợp với nguồn số liệu phỏng vấn 
sâu 9 nhà lãnh đạo doanh nghiệp ở TP HCM và số liệu thứ cấp từ các nguồn báo cáo 
công khai của Chính phủ cũng như từ Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam, bài viết 
này đã phân tích thực tế việc sử dụng dịch vụ G2B của các các doanh nghiệp Việt Nam. 
Ngoài ra, nhận định của doanh nghiệp về hiệu quả và những trở ngại chính khi sử dụng 
các dịch vụ G2B cũng được thu thập và phân tích. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số 
giải pháp nhằm hoàn thiện dịch vụ G2B cho chính phủ Việt Nam trong thời gian tới. 
Từ khóa: Chính phủ điện tử, dịch vụ công cho doanh nghiệp, Việt Nam. 
1. Đặt vấn đề 
Chính phủ điện tử (E-Government) đã trở thành thuật ngữ bao phủ gần như tất cả 
các ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông (viết tắt là ICT) và làn sóng chính phủ 
điện tử đang gia tăng nhanh chóng thông qua các tổ chức công và hoạt động quản trị công 
trên toàn thế giới (Fang, 2002). Chính phủ điện tử tạo điều kiện cho sự gia tăng tương tác 
giữa các cơ quan nhà nước và phục vụ người dân, doanh nghiệp. Theo đó, chính phủ điện 
tử tồn tại bốn dạng dịch vụ chính, bao gồm: trao đổi giữa cơ quan nhà nước với nhau 
(G2G), trao đổi giữa cơ quan nhà nước với doanh nghiệp (G2B), trao đổi giữa cơ quan 
nhà nước với người dân (G2C) và trao đổi giữa cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức, 
viên chức (G2E) (Torres, Pina, & cerete, 2006; Fang, 2002; Bộ Thông tin & Truyền 
thông, 2015). Ngày càng nhiều nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách tập trung vào 
các vấn đề khác nhau của chính phủ điện tử, cũng như tìm kiếm sự đồng thuận về sáng 
kiến và khung kiến trúc chính phủ điện tử (Martins & Veiga 2018; Rokhman, 2011; 
Torres et al., 2006; Tung & Rieck, 2005; Joia, 2004; Gupta & Jana, 2003). Trong khi các 
nghiên cứu trên thế giới về mối quan hệ trao đổi giữa cơ quan nhà nước với người dân 
được thực hiện phổ biến, thì nghiên cứu về mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với 
nhau, giữa chính phủ và công chức, viên chức, đặc biệt là giữa chính phủ với doanh 
nghiệp vẫn còn ít học giả quan tâm. 
Tại Việt Nam, trong những năm qua, Đảng, Chính phủ luôn quan tâm, coi trọng 
triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, đặc biệt trong việc thực hiện dịch vụ công trực 
tuyến giữa chính phủ và doanh nghiệp (G2B). Chính phủ đã triển khai một số dịch vụ 
công trực tuyến thiết yếu cho doanh nghiệp như: đăng ký doanh nghiệp, kê khai thuế, nộp 
thuế, hải quan điện tử, bảo hiểm xã hội; một số bộ, ngành đã xử lý hồ sơ công việc trên 
môi trường mạng; tại một số địa phương, hệ thống thông tin một cửa điện tử được đưa 
vào vận hành, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của đội ngũ công chức (Chính 
 4 
phủ, 2018). Việc xây dựng và hoàn thiện dịch vụ công trực tuyến giữa chính phủ và 
doanh nghiệp sẽ giúp môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp ngày càng minh bạch và 
thuận lợi hơn, đặc biệt cải thiện cung cấp các dịch vụ công của ngành thuế, bảo hiểm, sẽ 
giúp môi trường đầu tư kinh doanh Việt Nam tăng hạng đáng kể (V V, 2018). Bên cạnh 
đó, việc áp dụng hiệu quả các dịch vụ công trực tuyến giúp doanh nghiệp tiết kiệm đáng 
kể chi phí nhân lực và thời gian cũng như các chi phí không chính thức khác (VEC M, 
2018), cũng như gia tăng các lợi ích cảm nhận khác cho doanh nghiệp, thay đổi một số 
quy trình trong kinh doanh giúp doanh nghiệp nâng cao lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh 
thương mại điện tử như hiện nay. 
Tuy nhiên, việc sử dụng dịch vụ công trực tuyến giữa chính phủ và doanh nghiệp 
(G2B) ở nước ta hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế: các hệ thống thông tin dữ liệu còn cục 
bộ, chưa kết nối dữ liệu liên thông giữa các cơ quan Nhà nước, đặc biệt là kết nối dữ liệu 
của ngành thuế, hải quan và bảo hiểm xã hội chưa được thực hiện; dịch vụ công trực 
tuyến được doanh nghiệp sử dụng nhiều nhất là khai báo thuế, tiếp theo là dịch vụ đăng 
ký kinh doanh, các dịch vụ khác như khai báo hải quan, thủ tục cấp giấy chấp nhận xuất 
xứ điện tử, thủ tục tàu biển còn rất hạn chế. Theo số liệu mới nhất từ Hiệp hội Thương 
mại điện tử Việt Nam (VEC M, 2018) tính đến cuối năm 2017 tỷ lệ sử dụng dịch vụ 
G2B còn rất thấp, chỉ có 30% doanh nghiệp tra cứu thông tin trên các website cơ quan 
nhà nước năm 2017; việc giải quyết thủ tục hành chính và xử lý hồ sơ công việc còn 
mang nặng tính thủ công, giấy tờ, thậm chí có tới 27% doanh nghiệp điều tra chưa bao sử 
dụng dịch vụ G2B. Bên cạ ... hung cũng như môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp ngày càng 
minh bạch và thuận lợi hơn. Tất cả doanh nghiệp trả lời phỏng vấn sâu trong nghiên cứu 
này đều khẳng định việc áp dụng hiệu quả các dịch vụ công trực tuyến giúp doanh 
nghiệp: (1) giảm bớt rườm rà, thời gian, nhân lực cho các thủ tục hành chính; (2) tiếp cận 
các dịch vụ công một cách nhanh chóng, kịp thời; (3) giảm chi phí kinh doanh, nhất là 
các chi phí không chính thức; (4) tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; (5) tăng khả 
năng cạnh tranh. 
3.4. Đánh giá trở ngại trong quá trình sử dụng dịch vụ G2B 
 11 
 ết quả phỏng vấn sâu các doanh nghiệp chỉ ra rằng, trở ngại chính đối với doanh 
nghiệp trong việc thực hiện G2B là việc triển khai dịch vụ công trực tuyến vẫn còn mang 
tính hình thức, không đạt như kỳ vọng do ngại sử dụng công nghệ thông tin, sự né tránh 
của cán bộ, công chức và vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực. Một số cơ quan, 
người đứng đầu chưa trực tiếp chỉ đạo, điều hành hoạt động dịch vụ công trực tuyến, xây 
dựng Chính phủ điện tử hoặc công tác chỉ đạo thiếu quyết liệt, chưa gương mẫu. 
Tiếp theo, môi trường xã hội và tập quán kinh doanh cũng ảnh hưởng rất lớn đến 
hiệu quả áp dụng dịch vụ công trực tuyến. Việc giải quyết thủ tục hành chính và xử lý hồ 
sơ công việc của cơ quan hành chính nhà nước vẫn còn mang nặng tính thủ công, giấy tờ, 
ngại dùng công nghệ do sợ mất quyền kiểm soát, mất vai trò và khi công khai, minh bạch 
sẽ bị giám sát. 
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cho biết trở ngại khi triển khai áp dụng các dịch vụ 
công trực tuyến là các cơ sở dữ liệu quốc gia, hệ thống thông tin cốt lõi tạo nền tảng ứng 
dụng công nghệ thông tin, phát triển Chính phủ điện tử chậm được triển khai; các hệ 
thống thông tin, cơ sở dữ liệu đã được triển khai thiếu sự kết nối, chia sẻ. 
Hơn nữa, môi trường pháp lý chưa hoàn thiện, thiếu các quy định cụ thể về văn 
thư, lưu trữ điện tử, giá trị pháp lý của văn bản điện tử và các văn bản quy định việc sử 
dụng các văn bản điện tử trong giao dịch hành chính, thanh toán. n ninh mạng chưa 
đảm bảo cũng là những trở ngại để doanh nghiệp sử dụng các dịch vụ công trực tuyến. 
Cuối cùng, các doanh nghiệp cho rằng chưa được hướng dẫn cụ thể khi sử dụng 
dịch vụ công trực truyến. Các chức năng của dịch vụ công trực tuyến gây khó khăn cho 
người sử dụng. Dịch vụ công trực tuyến tuy có tăng về số dịch vụ nhưng dịch vụ công 
trực tuyến ở giai đoạn 3, 4 còn rất thấp (giai đoạn 3 khoảng 10%; giai đoạn 4 khoảng 
2%). Dịch vụ công trực tuyến nhất là ở các địa phương triển khai riêng lẻ, chưa đồng bộ 
dẫn đến trùng lắp, khó có khả năng kết nối, chia sẻ. Các dịch vụ ở giai đoạn 3, giai đoạn 4 
có hiệu quả chưa cao, chưa có hồ sơ trực tuyến hoặc số lượng hồ sơ trực tuyến còn thấp 
(năm 2017 tỷ lệ dịch vụ có hồ sơ trực tuyến của các Bộ, ngành ở giai đoạn 3 chiếm 
39,93%; giai đoạn 4 chiếm 55,16%; các tỉnh, thành phố ở giai đoạn 3 chiếm 11,46%; giai 
đoạn 4 chiếm 12,11%). 
4. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện dịch vụ G2B 
Từ kết quả phân tích thực trạng và dựa vào đánh giá của doanh nghiệp về trở ngại 
trong quá trình sử dụng G2B, nhóm nghiên cứu đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện 
dịch vụ G2B trong thời gian tới như sau: 
4.1. Cải thiện tiến tới xóa bỏ tính hình thức của việc cung cấp dịch vụ G2B 
Hiện tại việc cung cấp dịch vụ G2B vẫn còn mang tính hình thức chủ yếu là do tư 
duy nhận thức của cán bộ công chức khi tổ chức thực hiện dịch vụ G2B. Cần thay đổi 
nhận thức của cán bộ công chức, viên chức nhà nước bởi họ thường quen với trạng thái 
thoải mái trong công việc. Nhất thiết phải chuyển đổi tư duy của cán bộ công chức, viên 
chức từ tư duy “quản lý” sang tư duy “phục vụ” đảm bảo sự tiếp cận dễ dàng và công 
bằng của doanh nghiệp đối với dịch vụ G2B. Tất cả các lãnh đạo và công chức, viên chức 
trong các cơ quan Chính phủ phải nhận thức đúng và hiểu được tầm quan trọng của 
Chính phủ điện tử. Chính phủ cần ban hành văn bản pháp luật áp dụng giao dịch điện tử 
ở những nội dung bắt buộc để tránh việc triển khai thực hiện chính phủ điện tử với doanh 
nghiệp chỉ mang tính chất đối phó, không để tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực diễn ra. Cần 
thiết phải có sự cam kết về việc thay đổi và lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương phải chịu 
trách nhiệm và cần làm gương để nhân viên noi theo. 
 12 
Đào tạo là công việc quan trọng để giúp cán bộ công chức, viên chức làm quen với 
các kỹ năng mới cần thiết cho Chính phủ điện tử. Các khóa học như hành chính công 
hiện đại, thay đổi quy trình nghiệp vụ, thay đổi cách quản lý, công nghệ thông tin và quản 
lý nhà nước điện tử rất quan trọng trong việc triển khai thành công Chính phủ điện tử. 
Ngoài ra, Chính phủ nên tổ chức các khóa bồi dưỡng để nâng cao nhận thức về những giá 
trị mà Chính phủ điện tử mang lại và sự cần thiết phải thay đổi ngay từ bên trong nội bộ 
Chính phủ, không chỉ ở cấp chính quyền trung ương mà cả ở cấp địa phương. 
4.2. Thay đổi tập quán kinh doanh của doanh nghiệp 
Cần thay đổi dần tập quán kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là thói quen giao 
dịch giấy tờ, thích dùng tiền mặt của công dân, doanh nghiệp và cán bộ công chức, viên 
chức thông qua tuyên truyền, giáo dục để người dân và doanh nghiệp nhận thức được giá 
trị của chính phủ điện tử và thương mại điện tử. Đặc biệt, cần chú trọng công tác tập 
huấn, đào tạo cho các doanh nghiệp khởi nghiệp và thế hệ trẻ hiện nay nhằm đẩy mạnh 
ứng dụng công nghệ trong hoạt động kinh doanh, điều hành doanh nghiệp. 
4.3. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật 
Sự thành công của quản lý nhà nước điện tử đối với doanh nghiệp phụ thuộc rất 
nhiều vào cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin. Do đó, Chính phủ cần chú trọng vào phát 
triển các thành phần quan trọng khác của cơ sở hạ tầng chính phủ điện tử quốc gia như: 
cơ sở hạ tầng máy tính; trung tâm dữ liệu; khung kiến trúc chính phủ điện tử với 3 thành 
phần bao gồm khung kiến trúc dịch vụ, khung kiến trúc quy trình và khung kiến trúc dữ 
liệu; khung tương thích; và chính sách tên miền. Cơ sở hạ tầng cần được xây dựng cho tất 
cả các khía cạnh của quản lý nhà nước điện tử, cho phép cung cấp dịch vụ công từ Chính 
phủ và tiếp cận dịch vụ công của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao hoặc thậm chí cho phép 
tự động hóa tại các cơ quan chính phủ. Ngoài ra, Chính phủ nên đảm bảo sự phối hợp 
phát triển cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ tạo nên sự kết nối và chia sẻ dữ liệu giữa các 
bộ, ngành và địa phương. 
Cơ sở hạ tầng cần thiết lập trên phạm vi toàn quốc, các khu vực đô thị của đất 
nước đã được trang bị nhiều phương tiện, thiết bị công nghệ thông tin. Do đó, Chính phủ 
cần chú ý nhiều hơn đến vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa của đất nước để tránh xảy 
ra sự phân chia kỹ thuật số. 
4.4. Hoàn thiện các văn bản luật và bộ luật cơ bản cho Chính phủ điện tử và thương 
mại điện tử 
Theo kinh nghiệm các quốc gia phát triển về Chính phủ điện tử, nền tảng thể chế 
Chính phủ điện tử phải đi trước, trong khi chúng ta còn thiếu nhiều quy định và chính 
sách. Từ năm 1997, Singapore đã ban hành 4 luật cơ bản để hỗ trợ triển khai Chính phủ 
điện tử và thương mại điện tử, bao gồm: Luật Giao dịch điện tử, Luật Sở hữu trí tuệ sửa 
đổi, Luật Sử dụng máy tính sai mục đích để hỗ trợ truyền thông kỹ thuật số và Luật Bằng 
chứng điện tử dùng trong xét xử các vụ án. Vì vậy, để xây dựng Chính phủ điện tử tại 
Việt Nam yêu cầu hoàn thiện, thay đổi và xây dựng khung luật pháp liên quan đến việc 
nhận diện dạng dữ liệu/thông tin điện tử, chữ ký điện tử, lưu trữ điện tử, tự do thông tin, 
bảo vệ dữ liệu, phòng chống tội phạm mạng, luật quyền sở hữu trí tuệ, thương mại điện 
tử Tuy nhiên, để đạt được tất cả điều này cùng một lúc là điều gần như không thể, do 
đó Chính phủ cần xây dựng lộ trình thực hiện theo từng giai đoạn, từng bộ, ngành, địa 
phương cụ thể. 
Trong tương tác của G2B, một giao tiếp hai chiều diễn ra giữa doanh nghiệp và 
Chính phủ, do đó vấn đề bảo mật dữ liệu và quyền riêng tư của thông tin doanh nghiệp 
 13 
rất quan trọng. Vì vậy, các doanh nghiệp tham gia phỏng vấn sâu cho rằng các quy định 
cần được thiết lập phù hợp để lưu trữ và truyền dữ liệu trực tuyến an toàn, bảo đảm an 
ninh thông tin mới có thể phát triển dịch vụ G2B ở Việt Nam. 
4.5. Nâng cao năng lực, kỹ năng, trình độ cho các cấp quản lý và người lao động trong 
doanh nghiệp 
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến nâng cao ý thức cho các cấp quản lý và người 
lao động trong doanh nghiệp trong việc thực hiện dịch vụ công trực tuyến. Chính phủ cần 
thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho doanh nghiệp về các dịch vụ công trực 
tuyến, đào tạo bổ sung về chuyên môn nghiệp vụ, đảm bảo nắm đầy đủ thủ tục hành 
chính theo từng nhóm ngành đối với lãnh đạo và những người phụ trách G2B trong 
doanh nghiệp từ khâu tiếp nhận đến khâu trả kết quả. Từ đó nâng cao chất lượng đội ngũ 
G2B trong doanh nghiệp, góp phần đảm bảo tính công khai, minh bạch, nâng cao chất 
lượng cán bộ công chức thực hiện quản lý và cung cấp dịch vụ công trực tuyến. 
Các doanh nghiệp cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong kinh doanh, 
đẩy mạnh sử dụng internet phục vụ tiếp thị và kinh doanh, số hóa các văn bản giấy tờ 
trong quản trị doanh nghiệpnối mạng thống nhất bằng phần mềm quản trị các hoạt 
động sản xuất kinh doanh. 
4.6. Hoàn thiện dịch vụ công trực tuyến với doanh nghiệp 
Xây dựng Chính phủ điện tử không chỉ gắn kết chặt chẽ với cải cách thủ tục hành 
chính mà còn phải đẩy mạnh thực hiện cung cấp dịch vụ công trực tuyến như giai đoạn 3 
và giai đoạn 4. 
Rất nhiều quốc gia cung cấp quyền truy cập thông tin và dịch vụ dễ dàng cho công 
dân, doanh nghiệp, cộng đồng quốc tế thông qua Cổng dịch vụ công quốc gia duy nhất. 
Vì vậy, Việt Nam cần đẩy nhanh quá trình hoàn thiện Cổng dịch vụ công quốc gia để 
doanh nghiệp dễ dàng truy cập thông tin và sử dụng dịch vụ công. 
Cổng dịch vụ công quốc gia nên được trình bày thông tin toàn diện về tất cả các 
khía cạnh và thành phần của Chính phủ; phải dễ sử dụng cho tất cả khách truy cập vào 
cổng thông tin, kể cả những người lần đầu truy cập; cung cấp một cửa sổ truy cập duy 
nhất để tìm kiếm thông tin và dịch vụ, được phục vụ điện tử bởi các tổ chức và bộ phận 
liên quan; thông tin và nội dung ngoài tính toàn diện và hoàn chỉnh, phải đảm bảo tính 
đạo đức, chính xác và luôn được cập nhật để đạt được và duy trì mức độ tin cậy của 
doanh nghiệp; phải được xây dựng từ góc độ “công dân” hoặc “người dùng” chứ không 
phải từ quan điểm của Chính phủ; các công cụ và công nghệ triển khai trong việc phát 
triển, lưu trữ và bảo trì phải là những công nghệ mới nhất để đảm bảo tần suất hoạt động 
24/7. 
4.7. Xã hội hóa, cộng tác hay thuê ngoài một số dịch vụ để đẩy nhanh quá trình quản 
lý chính phủ điện tử 
Quan hệ đối tác công tư tạo nên kết quả đáng mong đợi so với mua sắm truyền 
thống hoặc tư nhân hóa. Chia sẻ rủi ro, đổi mới, cạnh tranh và hiệu quả mang lại bởi các 
đối tác tư nhân là những những đặc điểm chính để hướng tới quan hệ đối tác công tư hữu 
ích. 
Các dự án Chính phủ điện tử thường có quy mô lớn và vô cùng quan trọng và 
không chỉ đòi hỏi một lượng lớn tài nguyên mà còn đòi hỏi kỹ năng đa ngành. Do đó, sẽ 
 14 
trở nên khó khăn để Chính phủ xử lý hoàn toàn các dự án vào cùng một thời điểm với 
nguồn lực riêng của mình. Do đó, Chính phủ cần xây dựng quan hệ đối tác công tư để tận 
dụng những thế mạnh và nguồn lực của các đối tác khu vực tư nhân trong quá trình xây 
dựng Chính phủ điện tử kể cả các tổ chức phi chính phủ. 
Quan hệ đối tác công tư có thể thực hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau để nâng cao 
hiệu quả trong quá trình triển khai Chính phủ điện tử như: đầu tư tài chính, thiết lập cơ sở 
hạ tầng, lựa chọn công nghệ và kiến trúc giải pháp, phát triển và quản lý nội dung, kết 
xuất các dịch vụ đầu-cuối cho công dân, quản lý quan hệ công dân, triển khai các dự án 
chính phủ điện tử (toàn quốc/khu vực), phát triển phần mềm, quản lý dự án và đánh giá 
và nâng cao năng lực. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Thông tin & Truyền thông (2015). Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam. 
Ban hành kèm theo Văn bản số 1178/BTTTT-THH ngày 21/4/2015 của Bộ Thông tin 
và Truyền thông, Hà Nội. Tải tại 
phu-dien-tu-viet-nam-phien-ban-1.0 
2. Chính phủ (2018). Dự thảo Nghị quyết: “Về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm 
phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2025”. Tải 
tại 
Chinh-phu-dien-tu/340748.vgp 
3. Fang, Z. (2002). E-government in digital era: concept, practice, and 
development. International journal of the Computer, the Internet and 
management, 10(2), 1-22. 
4. Gupta, M. P., & Jana, D. (2003). E-government evaluation: A framework and case 
study. Government information quarterly, 20(4), 365-387. 
5. Itcnews (2018). 4 lĩnh vực cung cấp dịch vụ công online cho người dân, doanh nghiệp 
đạt hiệu quả cao. Truy cập tại: 
cap-dich-vu-cong-online-cho-nguoi-dan-doanh-nghiep-dat-hieu-qua-cao-165579.ict 
6. Joia, L. A. (2004). Developing Government-to-Government enterprises in Brazil: a 
heuristic model drawn from multiple case studies. International Journal of 
Information Management, 24(2), 147-166. 
7. Leitner, C. (2003). eGovernment in Europe: the state of affairs. EPIAScope, 2003(3), 
37-39. 
8. Martins, J., & Veiga, L. (2018, April). Electronic Government and the Ease of Doing 
Business. In Proceedings of the 11th International Conference on Theory and 
Practice of Electronic Governance (pp. 584-587). ACM. 
9. Rokhman, A. (2011). e-Government adoption in developing countries; the case of 
Indonesia. Journal of Emerging Trends in Computing and Information Sciences, 2(5), 
228-236. 
10. Sharma, S. K. (2004). Assessing e-government implementations. Electronic 
government, an international Journal, 1(2), 198-212. 
11. Sharma, S. K. (2006). E-Government Services Framework. In Encyclopedia of E-
Commerce, E-Government, and Mobile Commerce (pp. 373-378). IGI Global. 
12. Sharma, S. K., & Gupta, J. N. (2003). Building blocks of an e-government: A 
framework. Journal of Electronic Commerce in Organizations (JECO), 1(4), 34-48. 
 15 
13. Torres, L., Pina, V., & Acerete, B. (2006). E‐Governance developments in european 
union cities: Reshaping Government’s relationship with citizens. Governance, 19(2), 
277-302. 
14. Tung, L. L., & Rieck, O. (2005). Adoption of electronic government services among 
business organizations in Singapore. The Journal of Strategic Information 
Systems, 14(4), 417-440. 
15. United Nations (2018). E-Government Survey. New York. Available at: 
https://publicadministration.un.org/egovkb/portals/egovkb/documents/un/2018-
survey/e-government%20survey%202018_final%20for%20web.pdf 
16. VEC M (2018). Chỉ số thương mại điện tử Việt Nam 2018. Truy cập tại: 
viet-nam-2018 
17. VOV (2018). Thủ tướng: Nếu không xây dựng Chính phủ điện tử, Việt Nam sẽ tụt 
hậu. Truy cập tại: https://vov.vn/chinh-tri/thu-tuong-neu-khong-xay-dung-chinh-phu-
dien-tu-viet-nam-se-tut-hau-762205.vov 

File đính kèm:

  • pdfchinh_phu_quan_ly_dien_tu_doi_voi_doanh_nghiep_o_viet_nam_mo.pdf