Chất lượng của hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam so với một số nước Asean

Chất lượng của hệ thống

SHTT dường như đã trở thành tiêu

chuẩn bắt buộc tối thiểu đối với

nhiều quốc gia (trong đó có Việt

Nam) kể từ khi Hiệp định TRIPS/

WTO ra đời hơn 20 năm trước.

Một cách khái quát, hệ thống

SHTT được hiểu là hệ thống pháp

luật và hệ thống thi hành pháp

luật về SHTT. Hệ thống pháp luật

về SHTT có mục tiêu cơ bản là

đặt ra các quy tắc giúp cho chủ

thể quyền SHTT có khả năng thụ

hưởng và bảo vệ các quyền hợp

pháp của mình, được bênh vực và

bồi thường thiệt hại trong trường

hợp các quyền nêu trên bị người

khác xâm phạm. Tuy nhiên, hệ

thống pháp luật về SHTT với các

quy phạm sẵn có và toàn diện mới

chỉ là điều kiện cần nhưng chưa

đủ để bảo vệ quyền hợp pháp

của chủ thể quyền SHTT trong

thực tế. Vì thế, hệ thống thi hành

pháp luật về SHTT được thiết lập

với vai trò là điều kiện đủ để đạt

được mục tiêu nêu trên. Theo đó,

chất lượng của hệ thống SHTT

thường được phản ánh bởi chất

lượng của hệ thống pháp luật về

SHTT và chất lượng của hệ thống

thi hành pháp luật về SHTT với

các tiêu chí và thang đo phù hợp

với thông lệ quốc tế.

Chất lượng của hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam so với một số nước Asean trang 1

Trang 1

Chất lượng của hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam so với một số nước Asean trang 2

Trang 2

Chất lượng của hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam so với một số nước Asean trang 3

Trang 3

Chất lượng của hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam so với một số nước Asean trang 4

Trang 4

Chất lượng của hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam so với một số nước Asean trang 5

Trang 5

pdf 5 trang baonam 13360
Bạn đang xem tài liệu "Chất lượng của hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam so với một số nước Asean", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chất lượng của hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam so với một số nước Asean

Chất lượng của hệ thống sở hữu trí tuệ Việt Nam so với một số nước Asean
29
Diễn đàn khoa học và công nghệ
Số 1+2 năm 2021
Nguyên tắc, tiêu chí đánh giá chất 
lượng hệ thống SHTT
Chất lượng của hệ thống 
SHTT dường như đã trở thành tiêu 
chuẩn bắt buộc tối thiểu đối với 
nhiều quốc gia (trong đó có Việt 
Nam) kể từ khi Hiệp định TRIPS/
WTO ra đời hơn 20 năm trước. 
Một cách khái quát, hệ thống 
SHTT được hiểu là hệ thống pháp 
luật và hệ thống thi hành pháp 
luật về SHTT. Hệ thống pháp luật 
về SHTT có mục tiêu cơ bản là 
đặt ra các quy tắc giúp cho chủ 
thể quyền SHTT có khả năng thụ 
hưởng và bảo vệ các quyền hợp 
pháp của mình, được bênh vực và 
bồi thường thiệt hại trong trường 
hợp các quyền nêu trên bị người 
khác xâm phạm. Tuy nhiên, hệ 
thống pháp luật về SHTT với các 
quy phạm sẵn có và toàn diện mới 
chỉ là điều kiện cần nhưng chưa 
đủ để bảo vệ quyền hợp pháp 
của chủ thể quyền SHTT trong 
thực tế. Vì thế, hệ thống thi hành 
pháp luật về SHTT được thiết lập 
với vai trò là điều kiện đủ để đạt 
được mục tiêu nêu trên. Theo đó, 
chất lượng của hệ thống SHTT 
thường được phản ánh bởi chất 
lượng của hệ thống pháp luật về 
SHTT và chất lượng của hệ thống 
thi hành pháp luật về SHTT với 
các tiêu chí và thang đo phù hợp 
với thông lệ quốc tế.
Trong khoảng hơn 3 thập kỷ 
trước, nhiều nghiên cứu đã xây 
dựng các tiêu chí và thang đo 
nhằm đo lường chất lượng của hệ 
thống SHTT. Trong những nghiên 
cứu đó, có 2 cách tiếp cận chính, 
gồm: i) Chất lượng của hệ thống 
SHTT được phản ánh bởi tiêu chí 
“tính đầy đủ” của hệ thống pháp 
luật về SHTT; ii) Chất lượng của 
hệ thống SHTT được phản ánh 
bởi tiêu chí “tính hiệu quả” của hệ 
thống thi hành pháp luật về SHTT 
[1]. Hai tiêu chí này được xác định 
dựa trên nguyên tắc bảo đảm 
những chuẩn mực tối thiểu đối 
với hệ thống SHTT quốc gia theo 
Hiệp định TRIPS/WTO. Theo đó, 
hệ thống SHTT phải là hệ thống 
“đầy đủ”, nghĩa là không chỉ phải 
bảo hộ mọi đối tượng SHTT, 
không loại trừ đối tượng nào (đầy 
đủ các đối tượng quyền SHTT), 
mà đồng thời phải bảo đảm đầy 
đủ sự bảo hộ các quyền SHTT 
đó về nội dung, phạm vi và thời 
hạn trong mối quan hệ với lợi ích 
của xã hội (đầy đủ các quan hệ 
về SHTT); mặt khác phải là hệ 
thống bảo đảm tính “hiệu quả”, 
nghĩa là các quy phạm pháp luật 
phải hợp lý, khả thi, quyền SHTT 
phải được bảo vệ thực thụ, mọi 
hành vi xâm phạm quyền SHTT 
phải được pháp luật xử lý một 
cách công bằng [2-4]. 
Trước hết, chất lượng của hệ 
thống pháp luật về SHTT được 
phản ánh bởi tiêu chí “tính đầy 
đủ” của quy phạm pháp luật, 
được thể hiện ở tính sẵn có, hoặc 
phạm vi điều chỉnh cần thiết (cần 
phải có) của những quy định cụ 
thể đối với các dạng tài sản trí tuệ 
khác nhau (bảng 1).
chất lượng của hệ thống sở hữu trí tuệ 
việt nam so với một số nước asEan
TS Nguyễn Hữu Cẩn
Viện Khoa học sở hữu trí tuệ
Chất lượng của hệ thống sở hữu trí tuệ (SHTT) được coi là một yếu tố đặc biệt 
quan trọng trong việc thúc đẩy sáng tạo và đổi mới, chuyển giao công nghệ, 
phổ biến tri thức, phát triển kinh tế... Chiến lược SHTT đến năm 2030 của Việt 
Nam cũng đặt ra những mục tiêu liên quan tới chất lượng của hệ thống SHTT. 
Trên cơ sở đánh giá chất lượng của hệ thống này ở Việt Nam so với một số 
nước ASEAN theo các tiêu chí phổ biến của quốc tế và luận giải thông qua 
các phân tích thực tiễn, bài viết đưa ra một số khuyến nghị nhằm nâng cao 
chất lượng của hệ thống SHTT trong thời gian tới. 
30
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 1+2 năm 2021
Như vậy, tiêu chí chất lượng 
của hệ thống pháp luật về SHTT 
(tính đầy đủ) được đánh giá theo 
5 thang đo (bảng 1). Mỗi chỉ số 
được đo lường bằng thang đo biến 
nhị phân. Điểm số được tính cho 
từng chỉ số, trong đó mỗi thang 
đo được tính là 1 điểm, không có 
trọng số (điểm tính cho mỗi chỉ 
số theo công thức 1/n, trong đó n 
là số lượng chỉ số phản ánh từng 
thang đo); tổng số điểm cho chất 
lượng của hệ thống pháp luật về 
SHTT trong khoảng từ 0 đến 5 
điểm. 
Chất lượng của hệ thống thi 
hành pháp luật về SHTT được 
phản ánh bởi tiêu chí “tính hiệu 
quả” của hoạt động thi hành 
các quy phạm pháp luật, được 
thể hiện thông qua thủ tục hành 
chính xác lập quyền SHTT, thực 
thi quyền SHTT theo thủ tục tư 
pháp và tại biên giới, nhận thức 
của chủ thể quyền và của công 
chúng về thực thi quyền SHTT 
(bảng 2).
Bảng 1. Tiêu chí “tính đầy đủ” của hệ thống pháp luật về SHTT và các thang đo.
(1) Đối tượng có khả năng bảo hộ sáng chế (SC) Có quy định Không có quy định
Dược phẩm 1/9 0
Hóa chất 1/9 0
Thực phẩm 1/9 0
Thiết bị phẫu thuật 1/9 0
Chủng vi sinh 1/9 0
Mẫu hữu ích 1/9 0
Giống cây trồng 1/9 0
Chương trình máy tính 1/9 0
Phương pháp kinh doanh 1/9 0
(2) Thành viên của điều ước quốc tế Có tham gia Không tham gia
Công ước Paris về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp 1/6 0
Hiệp ước hợp tác SC (PCT) 1/6 0
Công ước bảo hộ giống cây trồng mới (UPOV) 1/6 0
Hiệp ước Budapest về nộp lưu quốc tế đối với chủng vi sinh 1/6 0
Hiệp định TRIPS/WTO 1/6 0
Hiệp định CPTPP 1/6 0
(3) Thời hạn bảo hộ SC/quyền tác giả Đầy đủ Một phần
20 năm (tính từ ngày nộp đơn) hoặc 17 năm (tính từ ngày cấp bằng độc quyền SC) 1/2 0<f<1/2
Cuộc đời tác giả + 70 năm (đối với quyền tác giả) 1/2 0<f<1/2
(4) Cơ chế thực thi quyền SHTT Có quy định Không có quy định
Biện pháp khẩn cấp tạm thời 1/4 0
Hành vi xâm phạm gián tiếp 1/4 0
Nghĩa vụ chứng minh thuộc về bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền SC 1/4 0
Thẩm quyền mặc nhiên của cơ quan hải quan trong việc xử lý hàng hóa xuất nhập khẩu 1/4 0
(5) Hạn chế quyền SHTT Có quy định Không có quy định
Nghĩa vụ sử dụng 1/4 0
Chuyển giao quyền sử dụng bắt buộc 1/4 0
Hủy bỏ hiệu lực quyền 1/4 0
Chuyển giao SC thiết yếu đối với tiêu chuẩn kỹ thuật (SEP) một cách lành mạnh, hợp lý và 
công bằng 1/4 0
Nguồn: tổng hợp của tác giả, [2, 3, 5].
31
Diễn đàn khoa học và công nghệ
Số 1+2 năm 2021
Như vậy, tiêu chí chất lượng 
của hệ thống thi hành pháp luật về 
SHTT (tính hiệu quả) được đánh 
giá theo 3 thang đo (bảng 2). Mỗi 
chỉ số được đo lường bằng các 
thang điểm khác nhau, trong đó 
điểm tính cho từng chỉ số được xác 
định dựa trên các dữ liệu thứ cấp 
trong các báo cáo đánh giá, xếp 
hạng của các tổ chức quốc tế uy 
tín. Do các chỉ số phản ánh mỗi 
thang đo được đo lường bởi các 
thang điểm khác nhau nên điểm 
của mỗi chỉ số sẽ được quy đổi về 
cùng thang đo [0-1] cho thống nhất 
với thang đo các tiêu chí đánh giá 
chất lượng của hệ thống pháp luật 
về SHTT. Sau khi quy đổi, tổng số 
điểm cho chất lượng của hệ thống 
thi hành pháp luật về SHTT trong 
khoảng 0-3 điểm.
Chất lượng của hệ thống SHTT Việt Nam 
so với một số nước ASEAN
Chất lượng của hệ thống SHTT 
Việt Nam được đánh giá theo các 
tiêu chí đã nêu dựa trên các dữ liệu 
thứ cấp và sơ cấp được thu thập từ 
nhiều nguồn thông tin khác nhau 
về hệ thống pháp luật và thi hành 
pháp luật về SHTT của Việt Nam. 
Để so sánh với các nước ASEAN 
khác, chúng tôi đã chọn Singapore, 
Malaysia, Indonesia, Thái Lan và 
Philippines là 5 nền kinh tế lớn 
nhất thuộc khối này. Các dữ liệu sơ 
cấp tương ứng với mỗi chỉ số của 
từng thang đo tiêu chí chất lượng 
của hệ thống pháp luật về SHTT 
chủ yếu được tìm kiếm, thu thập và 
phân tích trực tiếp từ các văn bản 
pháp luật, báo cáo thường niên 
hoạt động SHTT năm 2018-2019 
do các cơ quan SHTT của các 
nước nêu trên ấn hành và công bố, 
nhằm bảo đảm tính chính thức và 
độ tin cậy của các dữ liệu. Các dữ 
liệu thứ cấp tương ứng với mỗi chỉ 
số của từng thang đo tiêu chí đo 
lường chất lượng của hệ thống thi 
hành pháp luật về SHTT chủ yếu 
được trích xuất từ các nguồn thông 
tin trong các báo cáo đánh giá, xếp 
hạng năm 2018-2019 của các tổ 
chức quốc tế như Tổ chức nghiên 
cứu rủi ro chính trị (PRS), Tổ chức 
quốc tế về phát triển quản lý (IMD), 
Tổ chức SHTT thế giới (WIPO), 
Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), Tổ 
chức minh bạch quốc tế (TI), Đại 
diện thương mại Hoa Kỳ (USTR), 
Liên minh phần mềm kinh doanh 
(BSA). Ngoài ra, để luận giải thêm 
về kết quả đánh giá, chúng tôi đã 
tiến hành khảo sát để tìm hiểu cảm 
nhận và trải nghiệm của các tổ 
chức, cá nhân trong nước về chất 
lượng chung của hệ thống SHTT 
ở Việt Nam (mẫu khảo sát gồm có 
127 quan sát sau khi dữ liệu được 
làm sạch).
Kết quả đánh giá chất lượng 
của hệ thống pháp luật về SHTT 
Việt Nam so với một số nước thuộc 
khu vực ASEAN được trình bày ở 
bảng 3. 
Bảng 2. Tiêu chí “tính hiệu quả” của hệ thống thi hành pháp luật về SHTT và các thang đo.
Nguồn: tổng hợp của tác giả, [4].
(1) Thủ tục hành chính xác lập quyền SHTT Mức độ cao Mức độ thấp
Chỉ số mức độ quan liêu 0 4
Mức độ quan liêu không ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh (hoặc khả năng điều hành chính quyền 
có tác động tích cực tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp) 0 (100) 10 (0)
Mức độ cản trở trong điều hành của chính quyền 1 7
(2) Thực thi quyền SHTT theo thủ tục tư pháp và tại biên giới Thấp nhất Cao nhất
Mức độ độc lập tư pháp 1 7
Mức độ công bằng và niềm tin vào thực thi pháp luật 0 6
Mức độ lành mạnh trong quản trị tư pháp (hoặc mức độ tin tưởng và ràng buộc vào hệ thống tư pháp) 1 (0) 10 (100)
Mức độ ít tham nhũng được nhận thức 0 10
Mức độ hiệu quả thực thi quyền SHTT tại biên giới 1 5
(3) Nhận thức của chủ thể quyền SHTT và của công chúng về thực thi quyền SHTT Thấp nhất Cao nhất
Mức độ nhận thức của chủ thể quyền SHTT về những thay đổi trong cơ chế thực thi quyền SHTT 0 10
Thái độ văn hóa và xã hội đối với việc mua hàng hóa chứa yếu tố xâm phạm quyền SHTT (hoặc mức 
độ cam kết của công chúng về bảo hộ quyền SHTT) 0 (1) 10 (7)
Bảng 3. Chất lượng của hệ thống pháp luật về SHTT Việt Nam so với một số nước 
ASEAN (2018-2019).
Thứ hạng Quốc gia Điểm (sắp xếp theo thứ tự từ cao đến thấp)
1 Singapore 4,89
2 Việt Nam 4,36
3 Malaysia 3,94
4 Indonesia 3,64
5 Philippines 3,44
6 Thái Lan 3,03
Nguồn: tác giả.
32
Diễn đàn Khoa học và Công nghệ
Số 1+2 năm 2021
Theo các tiêu chí và thang 
đo phổ biến của quốc tế, chất 
lượng của hệ thống pháp luật về 
SHTT Việt Nam được xếp hạng 
2 trong 6 nước ASEAN điển hình 
(bảng 3). Việt Nam chỉ đứng 
sau Singapore do chưa có quy 
định về bảo hộ sáng chế đối với 
chương trình máy tính và phương 
pháp kinh doanh, chưa tham gia 
một số điều ước quốc tế như Hiệp 
ước Budapest về công nhận quốc 
tế đối với việc nộp lưu chủng vi 
sinh vật trong các thủ tục liên 
quan tới sáng chế, chưa có quy 
định về chuyển giao quyền sử 
dụng đối với sáng chế thiết yếu 
đối với tiêu chuẩn kỹ thuật một 
cách lành mạnh, hợp lý và công 
bằng. Nếu phân tích thêm về tính 
đầy đủ của hệ thống pháp luật về 
SHTT, với mẫu đã khảo sát, phần 
lớn tổ chức/cá nhân đánh giá hệ 
thống này ở mức độ từ “khá đầy 
đủ” đến “đầy đủ” (điểm bình quân 
2,57 đối với đối tượng SHTT và 
2,54 đối với quan hệ SHTT tính 
theo thang đo Likert 1-5).
Đối với hệ thống thi hành pháp 
luật về SHTT của Việt Nam, 
trong khối ASEAN, khi so với 
Singapore, các chỉ số phản ánh 
chất lượng xác lập quyền SHTT 
của Việt Nam ở mức khá thấp 
(tổng số 1,21 điểm so với 2,74 
điểm); đối với thang đo thực thi 
quyền SHTT theo thủ tục tư pháp 
và tại biên giới, các chỉ số phản 
ánh chất lượng thực thi quyền 
SHTT của Việt Nam cũng ở mức 
thấp (tổng số 2,44 điểm so với 
4,15 điểm); đối với thang đo nhận 
thức của chủ thể quyền SHTT và 
của công chúng về thực thi quyền 
SHTT, các chỉ số phản ánh mức 
độ nhận thức của chủ thể quyền 
SHTT và của công chúng của 
Việt Nam ở mức tương đương với 
các nước ASEAN khác (tổng số 
1,19 điểm). Đánh giá chung cho 
thấy, chất lượng của hệ thống thi 
hành pháp luật về SHTT của Việt 
Nam được xếp hạng thứ 5 trong 6 
nước ASEAN điển hình, chỉ trên 
Thái Lan và thấp hơn đáng kể so 
với Singapore và Malaysia. Sở dĩ 
như vậy vì so với Singapore và 
Malaysia, hai tiêu chí về thủ tục 
hành chính xác lập và thực thi 
quyền SHTT theo thủ tục tư pháp 
và tại biên giới của Việt Nam đều 
thấp hơn hẳn. Sau khi phân tích 
thêm, với mẫu đã khảo sát, phần 
lớn tổ chức/cá nhân đánh giá hệ 
thống này ở mức độ từ “khá hiệu 
quả” đến “hiệu quả” (điểm bình 
quân đối với mỗi cấu phần đều 
nằm trong khoảng 2-3 tính theo 
thang đo Likert 1-5). 
Một số khuyến nghị
Những đánh giá nêu trên về 
chất lượng của hệ thống SHTT ở 
Việt Nam theo các tiêu chí quốc 
tế có thể được luận giải qua thực 
trạng. Trước hết, xét về tính đầy 
đủ của hệ thống pháp luật về 
SHTT trong việc điều chỉnh các 
đối tượng quyền SHTT, một số 
đối tượng như chương trình máy 
tính và phương pháp kinh doanh 
chưa được bảo hộ với danh nghĩa 
sáng chế; hình dáng bên ngoài 
của bộ phận sản phẩm không thể 
tách rời khỏi sản phẩm chưa được 
bảo hộ với danh nghĩa kiểu dáng 
công nghiệp; các dấu hiệu âm 
thanh, mùi, chuyển động... cũng 
chưa được bảo hộ với danh nghĩa 
nhãn hiệu. Ngay cả đối với những 
đối tượng quyền SHTT truyền 
thống, các quy định về việc xác 
định một cách tường minh, thỏa 
đáng phạm vi bảo hộ (nội dung) 
cũng chưa thực sự đầy đủ. Đồng 
thời, nhiều mối quan hệ SHTT 
cũng chưa được quy định đầy đủ, 
như mối quan hệ cân bằng lợi ích 
giữa chủ sở hữu sáng chế thiết 
yếu đối với tiêu chuẩn kỹ thuật 
và lợi ích của ngành công nghiệp 
liên quan trong nước chưa được 
quy định. Trong quan hệ xác lập 
quyền SHTT, chưa có quy định 
về việc công bố đầy đủ thông 
tin về tình trạng kỹ thuật được sử 
dụng trong quá trình thẩm định 
nội dung trên văn bằng bảo hộ và 
đăng bạ quốc gia; chưa có quy 
định về việc cơ quan SHTT có 
quyền mặc nhiên chấm dứt hiệu 
lực văn bằng bảo hộ quyền SHTT 
nếu có cơ sở để khẳng định rằng 
quyền đó được xác lập một cách 
không trung thực; chưa có quy 
định điều chỉnh hành vi đăng ký 
nhãn hiệu mà không có ý định sử 
dụng, quy định về quyền sử dụng 
trước đối với nhãn hiệu...
Đối với hệ thống thi hành pháp 
luật về SHTT ở Việt Nam, có thể 
khẳng định rằng đây là một trong 
những điểm yếu và là thách thức 
lớn nhất của hệ thống SHTT. 
Theo đánh giá của [6], hiệu quả 
của hoạt động thực thi quyền 
SHTT còn thấp, chưa đáp ứng 
được yêu cầu thực tiễn, đặc biệt 
là việc thực thi quyền SHTT bằng 
biện pháp tư pháp. Trong xác 
lập quyền SHTT, thời hạn xử lý 
đơn đăng ký sở hữu công nghiệp 
chưa đáp ứng quy định của pháp 
luật; chất lượng xử lý đơn chưa 
cao... Về bảo vệ quyền SHTT, 
mặc dù quyền SHTT có bản chất 
dân sự, cho đến nay hoạt động 
bảo vệ quyền SHTT bằng biện 
pháp hành chính vẫn giữ vai trò 
chủ đạo, năng lực của các cơ 
quan bảo vệ quyền còn hạn chế; 
hệ thống tòa án dân sự chưa đủ 
nhân lực được đào tạo và có kinh 
nghiệm; sự phối hợp hoạt động 
giữa các cơ quan bảo vệ quyền 
SHTT chưa hiệu quả. Về thông 
tin sở hữu công nghiệp, chưa hình 
thành hệ thống có tính chất mạng 
lưới thông tin và khai thác dữ liệu 
thống nhất trong cả nước; cơ sở 
33
Diễn đàn khoa học và công nghệ
Số 1+2 năm 2021
dữ liệu quốc gia về sở hữu công 
nghiệp chưa đầy đủ, chưa được số 
hóa hoàn toàn... Xét về nhận thức 
và hiểu biết của xã hội về SHTT, 
có thể nói nhìn chung SHTT vẫn 
tiếp tục là một vấn đề mới và phức 
tạp đối với toàn xã hội. Hoạt động 
đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân 
lực về SHTT chưa được thực hiện 
một cách chuyên nghiệp và dài 
hạn; nhận thức của người dân, 
các tổ chức, doanh nghiệp về hệ 
thống SHTT chưa cao, ý thức chủ 
động tự bảo vệ quyền của mình 
cũng như tôn trọng quyền SHTT 
của người khác còn hạn chế. 
Với những phân tích thực trạng 
nêu trên, có thể thấy rằng trong 
thời gian tới hệ thống SHTT ở 
Việt Nam vẫn cần được tiếp tục 
cải thiện ở mọi cấu phần nhằm 
bảo đảm chất lượng một cách 
thực sự, đáp ứng các đòi hỏi của 
thực tiễn trong nước và xu thế 
phát triển trên thế giới. Trong 
Chiến lược SHTT đến năm 2030 
của Việt Nam, vấn đề chất lượng 
của hệ thống SHTT được đặt 
ra trong nhiều nội dung, có liên 
quan tới nhiều cấu phần của hệ 
thống, đặc biệt là hệ thống thi 
hành pháp luật về SHTT. Trong 
đó, nhằm bảo đảm việc thực hiện 
thành công mục tiêu “đến năm 
2030, Việt Nam thuộc nhóm các 
nước dẫn đầu ASEAN về trình 
độ sáng tạo, bảo hộ và khai thác 
quyền SHTT”, Chiến lược đề xuất 
cần “tăng cường nguồn nhân lực 
cho hoạt động SHTT”, theo đó 
cần “xây dựng kế hoạch tổng 
thể phát triển nguồn nhân lực về 
SHTT, trong đó chú trọng đào tạo 
nguồn nhân lực có trình độ cao; 
thu hút nhân lực chất lượng cao 
trong và ngoài nước tham gia 
vào hoạt động SHTT” và “tập 
trung đào tạo, bồi dưỡng nghiệp 
vụ, nâng cao chất lượng nguồn 
nhân lực của các cơ quan quản lý 
nhà nước, cơ quan bảo vệ quyền 
SHTT”. 
Trên cơ sở những phân tích, 
đánh giá nêu trên, trong bối cảnh 
chịu tác động mạnh của cuộc 
cách mạng công nghiệp 4.0 và 
sự phát triển nền kinh tế số, để 
cải thiện chất lượng của hệ thống 
SHTT hiện hành, trước hết hệ 
thống pháp luật về SHTT cần 
phải là một hệ thống đầy đủ hiệu 
lực, toàn diện, hợp lý, rõ ràng, 
minh bạch, phù hợp với trình độ 
quốc tế, có nội dung chủ yếu 
là cơ chế xác lập các quyền và 
nghĩa vụ của các chủ thể trong 
quan hệ pháp luật về SHTT; các 
biện pháp chế tài bảo đảm cho 
các quyền đó được thực thi và 
có khả năng phòng ngừa, ngăn 
chặn, xử lý các hành vi xâm 
phạm quyền SHTT. Hệ thống thi 
hành pháp luật về SHTT cần có 
nội dung chủ yếu là tổ chức diễn 
giải, áp dụng, thực hiện các quy 
phạm của hệ thống pháp luật về 
SHTT, trong đó đặc biệt lưu ý tới 
việc xác lập và xác định phạm vi 
quyền SHTT, bảo đảm các điều 
kiện để bảo vệ quyền SHTT đã 
được xác lập và xử lý các hành vi 
xâm phạm quyền một cách thỏa 
đáng. Việc xác lập quyền SHTT 
được thực hiện bằng các thủ tục 
rõ ràng, công bằng, đơn giản, 
nhanh chóng, cơ quan xác lập 
quyền có đủ năng lực giải quyết 
mọi yêu cầu xác lập quyền. Việc 
bảo vệ quyền SHTT phải bảo đảm 
có hiệu lực, hiệu quả, ưu tiên trình 
tự dân sự để xử lý tranh chấp; các 
cơ quan bảo đảm thực thi có đầy 
đủ năng lực cần thiết để tham 
gia vào việc đánh giá, nhận định 
hành vi xâm phạm và thực hành 
các chế tài, quyết định của các 
cơ quan này phải bảo đảm tính 
chính xác, thoả đáng, phù hợp 
pháp luật. Về thông tin sở hữu 
công nghiệp, cần xây dựng cơ 
sở dữ liệu một cách đầy đủ, kịp 
thời, đáng tin cậy và thuận tiện 
cho việc truy cập rộng rãi, thiết 
lập mạng lưới thông tin SHTT 
quốc gia nhằm bảo đảm khả 
năng cung cấp đầy đủ, kịp thời 
mọi thông tin phục vụ đắc lực cho 
các hoạt động nghiên cứu, sáng 
tạo, kinh doanh của toàn xã hội. 
Để đạt được các yêu cầu về chất 
lượng của hệ thống SHTT, trong 
10 năm tới cần phải làm cho toàn 
xã hội ý thức được rằng việc tôn 
trọng quyền SHTT là nghĩa vụ 
của mọi người, từ đó giảm bớt 
căn bản các trường hợp vi phạm 
do thiếu hiểu biết; các nội dung 
cơ bản của hệ thống pháp luật về 
SHTT, đặc biệt là các quy định về 
thủ tục xác lập và bảo vệ quyền 
phải trở thành hiểu biết rộng rãi, 
không còn là vùng khó tiếp cận ? 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] P. Papageorgiadis, M. Frank 
(2019), “Defining and measuring 
the institutional context of national 
intellectual property systems in a post-
TRIPS world”, Journal of International 
Management, 25, pp.3-18.
[2] J.C. Ginarte, W. Park (1997), 
“Determinants of patent rights: a 
crossnational study”, Research Policy, 
26, pp.283-301. 
[3] W. Park (2008), “International 
patent protection 1960-2005”, 
Research Policy, 37, pp.761-766. 
[4] P. Papageorgiadis, A.R. Cross, 
C. Alexiou (2014), “International patent 
systems strength 1998-2011”, J. World 
Bus., 49, pp.586-597.
[5] C. Mercedes, N. Alessandro 
(2013), Measuring the strength of 
intellectual property protection: a new 
index for plant varieties (1961-2011), 
DRUID Academy Conference.
[6] Cục Sở hữu trí tuệ (2019), Đề án 
Chiến lược SHTT đến năm 2030.

File đính kèm:

  • pdfchat_luong_cua_he_thong_so_huu_tri_tue_viet_nam_so_voi_mot_s.pdf