Chất dân gian của Truyện Kiều
Truyện Kiều là tác phẩm lớn của văn học dân tộc, một truyện thơ cổ điển kết hợp nhuần nhuyễn của tính
dân gian và tính bác học. Chất dân gian của Truyện Kiều thể hiện trong cách nói, cách cảm, cách nghĩ
của người tường thuật và các nhân vật, trong thi pháp cũng như trong nội dung tư tưởng – tình cảm của
tác phẩm. Sự tổng hợp hoàn chỉnh của chất bác học và chất dân gian góp phần làm cho Truyện Kiều
trường tồn và được phổ biến rộng rãi.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Chất dân gian của Truyện Kiều", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Chất dân gian của Truyện Kiều
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 12 (37) - Thaùng 2/2016 14 Chất dân gian của Truyện Kiều The folk quality of Kieu Tale TS. Nguyễn Thị Kim Ngân, Trường Đại học Sài Gòn Ph.D. Nguyen Thi Kim Ngan, Sai Gon University Tóm tắt Truyện Kiều là tác phẩm lớn của văn học dân tộc, một truyện thơ cổ điển kết hợp nhuần nhuyễn của tính dân gian và tính bác học. Chất dân gian của Truyện Kiều thể hiện trong cách nói, cách cảm, cách nghĩ của người tường thuật và các nhân vật, trong thi pháp cũng như trong nội dung tư tưởng – tình cảm của tác phẩm. Sự tổng hợp hoàn chỉnh của chất bác học và chất dân gian góp phần làm cho Truyện Kiều trường tồn và được phổ biến rộng rãi. Từ khóa: chất dân gian, Truyện Kiều, Nguyễn Du, chất bác học Abstract Kieu Tale is a masterpiece of traditional literary. It is a tale of classical poetry that marries the folk poetry with the savant. The folk substances of Kieu Tale can be found in the manners how the narrators and the literary characters tell and perceive in term of poetics and thoughts and feeling as well. The perfect aggregation of the savant and folk quality makes the Kieu Tale everlasting and widespread. Keywords: folk substance, Kieu Tale, Nguyen Du, the savant Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm lớn của văn học dân tộc. Một trong những đặc điểm quan trọng của Truyện Kiều là sự kết hợp nhuần nhuyễn tính dân gian và tính bác học. Đặc điểm này đã tạo nên giá trị và tính phổ biến của tác phẩm, làm cho Truyện Kiều được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân từ đời này sang đời khác. Chất dân gian trong Truyện Kiều bộc lộ qua cách nói, cách cảm và cách nghĩ của Nguyễn Du, của người tường thuật cũng như của các nhân vật trong tác phẩm. Tìm hiểu chất dân gian của Truyện Kiều sẽ giúp chúng ta hiểu thêm vì sao tác phẩm của Nguyễn Du trường tồn qua thời gian, gần gũi với công chúng và được yêu mến rộng rãi. Kết thúc Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: Lời quê chắp nhặt dông dài Mua vui cũng được một vài trống canh “Lời quê”ở đây có thể hiểu là cách nói khiêm tốn của Nguyễn Du, nhưng đồng thời cũng có thể hiểu là ông nói thực khi không làm thơ bằng chữ Hán mà bằng chữ Nôm, khi không sử dụng những thể thơ tứ tuyệt hay thất ngôn với niêm luật chặt chẽ mà dùng thể thơ lục bát mà chắc chắn cho đến lúc đó vẫn còn được xem là tiếng nói của người dân quê. Việc chọn thể thơ lục bát để kể lại Kim Vân Kiều truyện đã đưa 15 tác phẩm của Nguyễn Du vào hàng các truyện Nôm và vì vậy ngay từ đầu nó đã mang chất dân gian rất rõ. Vì sao một ông quan, một nhà Nho dòng dõi, tác giả của Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục lại chọn dịch một truyện tài tử - giai nhân như Kim Vân Kiều truyện và chọn một thể thơ “quê” như lục bát? Có lẽ bởi vì Nguyễn Du thuộc lớp “nhà nho tài tử” (chữ của Trần Đình Hượu), muốn tìm một chút phóng túng trong những câu chuyện tài tử - giai nhân và trong một thể thơ bình dân, thoải mái, thoát khỏi “luật thơ nghiêm như luật hình” (Phạm Quỳnh) để thõa mãn một phần cái chất phi chính thống, ý thức tự do trong con người nghệ sĩ của nhà thơ. Cũng có lẽ vì những năm trẻ tuổi Nguyễn Du đã từng sống ở Tiên Điền, thường sang Trường Lưu chơi và hát phường vải. Những câu hát dân gian đã để lại trong Nguyễn Du ấn tượng sâu sắc và thị hiếu thẩm mỹ của nhà thơ đã chịu ảnh hưởng một phần của thị hiếu dân gian. Có lẽ chính vì thế mà Nguyễn Du đã chọn “lời quê” để kể câu chuyện về đời Kiều và nhờ “lời quê” ấy, tác phẩm của nhà thơ đã nhanh chóng đi vào quần chúng và bước vào quỹ đạo của những giá trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân gian. Lục bát là “lời quê", nhưng “lời quê” không chỉ thể hiện trong lối nói bằng câu thơ lục bát. Trong Truyện Kiều chúng ta bắt gặp rất nhiều câu thơ gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người bình dân: Quá niên trạc ngoại tứ tuần Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao Cò kè bớt một thêm hai Hồi lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm Lo gì việc ấy mà lo Kiến trong miệng chén có bò đi đâu Thậm chí có những câu không khác gì những lời nói dân dã: Lại còn bưng bít dấu quanh Làm chi những thói trẻ ranh nực cười Bây giờ đất thấp trời cao Ăn làm sao nói làm sao bây giờ? Bề ngoài thơn thớt nói cười Mà trong nham hiểm giết người không dao Đặc biệt có những câu đúng là lời quê vì ở đây có những chữ, những cách nói mà có lẽ chỉ người dân quê mới biết, mới dùng, ví dụ: Ông bà càng nói càng đau Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa (Bản của Đào Duy Anh chép:.. “càng rầu như dưa”) Hay: Kẻo khi sấm sét bất kỳ Con ong cái kiến kêu gì được oan Cho gươm mời đến Thúc Lang Mặt như chàm đổ mình dường giẻ (dẽ) run Tuy nhiên nếu nói đến chất gian trong cách nói của Nguyễn Du, phải thừa nhận rằng việc sử dụng tục ngữ và thành ngữ trong Truyện Kiều là yếu tố gây ấn tượng hết sức mạnh mẽ. Nhiều thành ngữ như “ăn xổi ở thì”, “miệng hùm nọc rắn”, “mèo mả gà đồng”... đã ... ướt đầm cả năm Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai Thương cha thương mẹ có khi Thương em lúc đứng lúc đi lúc ngồi Thương thương nhớ nhớ sầu sầu Một ngày ba bận ra cầu đứng trông Anh buồn có chốn thở than Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu Để ai trăng tỏ hoa sầu vì ai Đọc Truyện Kiều chúng ta như bắt gặp cũng tâm trạng ấy. Tác phẩm của Nguyễn Du giống bản đàn mà Thúy Kiều gẩy cho Kim Trọng buổi đầu gặp gỡ: Rằng: Hay thì thật là hay Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào Và dù Nguyễn Du có cố tình “mua vui” (Mua vui cũng được một vài trống canh) thì đọc Truyện Kiều cũng chẳng ai vui được. Âm điệu chính của Truyện Kiều 19 cũng tương tự như ca dao trữ tình, tràn đầy nỗi nhớ, buồn, thương: Tìm đâu cho thấy cố nhân Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương Chạnh lòng nhớ cảnh tha hương Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê Không chỉ Thúc Sinh nhớ. Thúy Kiều càng nhớ nhiều hơn. Nhớ Kim Trọng, nhớ Thúc Sinh, nhớ nhà, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ em. Trăm năm nỗi nhớ vây lấy người con gái bán mình, lưu lạc, xa quê. Và cùng với nhớ là thương. Thương cha thương mẹ: Xót thay huyên cỗi xuân gìà Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi Thương nhớ người yêu: Sông Tương một dải nông sờ Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia Thương mình: Khi tỉnh rượu lúc tàn canh Giật mình mình lại thương mình xót xa Thương, nhớ và buồn: Buồn trông phong cảnh quê người Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa Nỗi buồn theo chân Kiều suốt chặng đường mười lăm năm lưu lạc: Sen tàn cúc lại nở hoa Sầu dài ngay ngắn đông đà sang xuân Buồn ám ảnh Kim Trọng, Thúc Sinh, cha mẹ Thúy Kiều và bám chặt đời Kiều: Sầu này dằng dặc muôi đời chưa quên Nỗi buồn xuyên suốt Truyện Kiều như khúc “đoạn trường Tân Thanh, như tiếng kêu não ruột. Âm điệu chung của Truyện Kiều cũng như âm điệu chung của ca dao trữ tình truyển thống. Cái điệu tình cảm trong câu thơ Kiều”. Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa Nghe như phảng phất âm điệu câu ca dao: Chiều chiều én liệng nhạn bay Ta đây nhớ bạn, bạn rày nhớ ai Hay: Buồn trông chênh chếch sao mai Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ Nhưng cái điệu tình cảm NHỚ, THƯƠNG, BUỒN chỉ là một phần trong những thứ tạo nên chất dân gian trong cách cảm của Nguyễn Du. Quan trọng là bên cạnh cái giọng tình cảm ấy, trong cái ruột của nó, chúng ta thấy tấm lòng của Nguyễn Du thương xót con người, đồng cảm với thân phận người phụ nữ, thậm chí Nguyễn Du còn như đau hơn, phẫn uất hơn ca dao chỉ nói: Thân em như tấm lụa đào Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai Nhưng trong Truyện Kiều, số phận người phụ nữ như cay nghiệt hơn: Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung Cái câu “Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” này có ý nghĩa khái quát rất lớn. Nó nói lên rằng “bạc mệnh” không chỉ có Thúy Kiều, không chỉ có những người tài sắc mà là với “phận đàn bà” nói chung. Và đã là “lời chung” thì cũng không phải chỉ “phận đàn bà” mà còn là của kiếp người. Nguyễn Du nhiều lần than về kiếp người đau khổ: Khéo là mặt dạn mày dày Kiếp người đã đến thế này thì thôi Thương thay cũng một kiếp người Khéo thay mang lấy sắc tài làm chi! Xét về một phương diện nào đó, có thể nói Truyện Kiều không phải là bức tranh về hiện thực xã hội phong kiến thối nát, cũng không phải câu chuyện oan trái về tài và mệnh mà chính là câu chuyện về kiếp người, những thăng trầm trong kiếp làm người. Thúy Kiều chỉ là hình ảnh tượng trưng cho nỗi khổ chung của kiếp người. Nỗi khổ ấy hiện diện đầy đủ nhất ở thân phận người phụ nữ và càng rõ nét hơn 20 ở người phụ nữ có tình, có sắc, có tài, nhưng trên hết nó là nỗi khổ chung của kiếp người và cái lớn của Nguyễn Du, cái làm nên tính phổ biến của Truyện Kiều chính là nêu lên được nỗi đau chung ấy. “Cái ám ảnh ông không phải là những cuộc đời cụ thể mà là cái số kiếp chung” (Trần Đình Hượu)(4). Người bình dân yêu mến Truyện Kiều không chỉ vì cảm thương số phận hồng nhan bạc mệnh của Thúy Kiều mà cái chính là qua nỗi đau của người con gái tài sắc, qua thân phận của người phụ nữ họ thấy được cái tình với nỗi đau chung của kiếp người, cái kiếp người mà họ vẫn thường than vãn trong ca dao: Bắc thang lên hỏi ông Trời Cớ sao nỡ để kiếp người đắng cay(5) Cái tình ấy lớn đến mức nhiều lúc nó vượt lên trên cái lí thông thường, biến thành lòng vị tha, khoan dung, có sức thuyết phục hơn cả mọi lý lẽ. Trong Truyện Kiều, khi Sư Tam Hợp nói rằng Thúy Kiều “Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm” thì đó chính là sự phán xét không phải dựa trên cái lý của đạo đức phong kiến mà dựa trên cái lí của chữ tình. Điểu này lại càng rõ hơn nữa khi chúng ta nghe Kim Trọng lý giải về chữ Trinh. Đáp lại lời từ chối của Thúy Kiều khi tái hợp, muốn “Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” với lí do Thiếp từ ngộ biến đến giờ Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa Kim Trọng khăng khăng một mực không bằng lòng với lí lẽ rằng: Xưa nay trong đạo đàn bà Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường Và vì “nàng lấy hiếu làm trinh” nên “Bụi nào cho đục được mình ấy vay?”. Nói rằng “lấy hiếu làm trinh” và “chữ trinh kia cũng có ba bảy đường" thì cũng có cái lí của nó, nhưng đó có lẽ không phải là cái lí theo cách nghĩ thông thường; nó là cái lí của tình yêu thương, lòng vị tha. Sự phán xét dựa trên lòng yêu thương, sự khoan dung ấy của Nguyễn Du cũng như của các nhân vật của Truyện Kiều cũng là một nét chung của văn hóa Việt. “Lòng nhân ái, khoan dung, sống rộng bụng, có tình nghĩa là truyền thống quí báu của nhân dân ta. Tính nhân bản này được này sinh từ tính ôn nhu của người làm nông nghiệp lúa nước, hẳn đã được hình thành từ thời Đông Sơn” (Hà Văn Tấn)(6). Tấm lòng thương người, sự thông cảm với nỗi đau khổ của người phụ nữ và của kiếp người là mẫu số chung của Truyện Kiều và ca dao, của Nguyễn Du và quần chúng nhân dân. Cái tình ấy, lòng nhân ái ấy là cái lõi của chất dân gian trong tác phẩm Nguyễn Du. Cái lõi ấy lại được nhân lên, được tô đậm bởi sự gần gũi trong cách nghĩ, cách hành xử của các nhân vật, của người kể chuyện trong Truyện Kiều với cách nghĩ và lối hành xử của người dân quê. Dân gian tìm thấy trong Truyện Kiều không chỉ sự đồng điệu trong cách nói, cách diễn tả, trong cách nhớ, cách thương mà cả trong cách coi cái gì là trọng là khinh, cái gì là hợp với đạo lí, cái gì đáng ca ngợi cái gì không. Chẳng hạn hành động Thúy Kiều bán mình chuộc cha và câu thơ của Nguyễn Du: Để lời thệ hải minh sơn Làm con trước hãy đền ơn sinh thành Chắc chắn rất gần gũi với suy nghĩ của quần chúng lao động thể hiện trong câu ca dao: Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Tấm lòng hiếu nghĩa của Thúy Kiều đã được một đại diện của dân gian là Vãi Giác Duyên đánh giá rất cao: Người sao hiếu nghĩa đủ đường 21 Cái hiếu của Thúy Kiều cũng chính là cái hiếu được đề cao trong các truyện cổ tích, trong ca dao: Con ơi cho trọn hiếu trung Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy Chữ trung thì để phần cha Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình Trung hiếu ở đây không còn là đạo đức phong kiến mà chính là đạo đức làm người theo quan điểm của nhân dân lao động, là đạo lí bình dân. Bởi vậy người bình dân khi đọc Truyện Kiều thấy trong thái độ và cách nghĩ của Nguyễn Du trong cách hành xử của Thúy Kiều một cái gì đó gần với mình, dễ chia sẻ được. Ngay cái cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán gây nhiều tranh cãi, theo chúng tôi cũng không xa lạ với tâm lí của người dân quê. Khi Từ Hải nói: Ân oán hai bên Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh Và Kiều khẳng định “báo ân rồi sẽ trả thù” thì hành động của Kiều cũng giống như hành động của cô Tấm trừng phạt Cám và mẹ ghẻ trong truyện cổ tích. Ở đây cách hành xử của Thúy Kiều và Tấm hoàn toàn phù hợp với đạo lí dân gian, đúng như ý kiến của Đinh Gia Khánh khi viết về cái chết của mẹ con người dì ghẻ trong truyện Tấm Cám: “Biết yêu và biết ghét, đó là hai mặt khăng khít trong tình cảm của nhân dân”(7). Cái lí lẽ mà Kiều dựa vào đó để báo oán: Nàng rằng: Lồng lộng trời cao Hại nhân nhân hại sự nào tại ta! Cũng chính là lí lẽ của dân gian được đúc kết trong tục ngữ: “Ác giả ác báo”, “Trời quả báo, ăn cháo gãy răng”, “Ai bảo trời không có mắt”. Trong Truyện Kiều, nếu xem xét kỹ, chúng ta sẽ nhận thấy có khá nhiều dấu vết của quan niệm, cách nghĩ dân gian. Chẳng hạn trong Truyện Kiều có 8 lần Nguyễn Du gọi Từ Hải là anh hùng. Hình ảnh Từ Hải phần nào phản ánh chất phi chính thống của nhà Nho tài tử Nguyễn Du, nhưng chắc cũng có một phần in dấu quan niệm anh hùng nghĩa hiệp mà Nguyễn Du chịu ảnh hưởng qua sáng tác dân gian. Đọc câu thơ trong Truyện Kiều: Một đời được mấy anh hùng Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi! Hay: Anh hùng đã tiếng gọi rằng Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha Chúng ta thấy như phảng phất hơi ca dao: Của đời muôn sự của chung Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi Đặc biệt trong Truyện Kiều chúng ta bắt gặp rất nhiều chữ Trời, Phật, Đạo, Tiên gắn với hình ảnh hai nhân vật Vãi Giác Duyên và sư cô Tam Hợp. Có thể nói với sự hiện diện của Giác Duyên và sư Tam Hợp, thế giới tín ngưỡng của Truyện Kiều gần với sinh hoạt tín ngưỡng dân gian hơn là tôn giáo chính thống. Ở đây cũng có báo mộng, bói toán, lập đàn cúng bái, ở đây Trời, Phật, Đạo, Tiên cũng tồn tại, gần gũi với con người. Nhân vật của Nguyễn Du cũng hành động như con người trong ca dao, cũng có chung một kiểu tín ngưỡng như nhau: Phải điều cầu Phật cầu Tiên Tình kia hiếu nọ ai đền cho ai (Truyện Kiều) Lên chùa cầu Phật cầu Trời Xét cho mọi việc ở đời bất công (Ca dao) Đặc biệt cái lối nghĩ về Trời trong Truyện Kiều rất giống lối nghĩ về Trời thường gặp trong truyện cổ tích và ca dao. Tương tự như quan niệm dân gian, trong Truyện Kiều, Trời hiện ra như đấng tối cao vô hình, quyết định tất cả: Ngẫm hay muôn sự tại Trời Trời còn để có hôm nay 22 Người dầu muốn quyết Trời nào đã cho Biết thân chạy chẳng khỏi Trời (Truyện Kiều) Giống như trong ca dao: Nhờ Trời hòa cốc phong đăng Cấy lúa, lúa tốt, nuôi tằm, tằm tươi Nhờ Trời mưa thuận gió hòa Lờ rọ bán được, cảnh nhà thêm vui Lạy Trời cho cả gió lên Cho manh chiếu rách lên trên toàn vùng (Ca dao) Ai làm gì sai sẽ cảm thấy có tội với Trời: Trăm điều ngang ngửa vì tôi Thân sau ai chịu tội Trời ấy cho (Truyện Kiều) Hay gì lừa đảo kiếm lời Một nhà ăn uống tội Trời riêng mang (Ca dao) Trời là chỗ để người ta than vãn, kêu oan, oán trách khi không còn biết dựa vào đâu để trút nỗi khổ, nỗi bất công mà mình phải chịu: Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên Oan này còn một kêu trời nhưng xa (Truyện Kiều) Tôi làm tôi chẳng có chơi Nghèo đâu nghèo mãi Trời ơi hỡi Trời! Trời ơi Trời ở chẳng câu Kẻ ăn không hết người lần không ra (Ca dao) Tuy nhiên tín ngưỡng “Đạo Trời” trong Truyện Kiều (“Sư rằng: phúc họa đạo Trời”, “Đạo Trời báo phục chỉn ghê”) cũng giống như trong ca dao, không hoàn toàn mù quáng và yếm thế. Cái câu: “Có trời mà cũng tại ta”trong Kiều cũng không xa vời cách nghĩ của người nông dân: Được thua dù có tại trời Chớ thấy sóng cả mà rời tay co (Ca dao) Có thể nói trong Truyện Kiều có rất nhiều chi tiết, nhiều câu thơ mà ở đó chúng ta thấy cách nghĩ, quan niệm của người tường thuật và của các nhân vật về đạo lí, cách sống, tín ngưỡng, rất gần với người bình dân thể hiện qua truyện cổ tích, ca dao. Điều này cũng không có gì lạ. Chính Nguyễn Du trong bài thơ chữ Hán “Thanh minh ngẫu hứng” đã từng viết: Thôn ca sơ học tang ma ngữ Dã khốc thời văn chiến phạt thanh (Câu ca nơi thôn dã giúp ta biết được tiếng nói của người trồng gai trồng dâu. Trong tiếng khóc nơi đồng nội như nghe thấy tiếng chiến tranh). Bên cạnh tài năng, những năm tháng sống gần gũi với thôn quê đã giúp Nguyễn Du học được cách nói của những bài “thôn ca”, hiểu và chia sẻ với cách cảm, cách nghĩ của những người bình dân mà ông tiếp xúc cũng như với những gì đã được thể hiện qua các sáng tác dân gian. Điều đó đã làm cho Truyện Kiều trở thành một hiện tượng đặc biệt, tổng hợp chất bác học và chất dân gian thành một truyện thơ cổ điển của văn học dân tộc. Giá trị và sức sống bền bỉ của Truyện Kiều, tính phổ biến và bản sắc dân tộc của tác phẩm nằm trong sự tổng hợp ấy. Chú thích 1) Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diện, Lịch sử văn học Việt Nam: Văn học Dân gian, Tập I, Nxb ĐH & THCN, Hà Nội, 1972, tr.291. 2) Về biểu tượng thiên nhiên trong ca dao, xin xem thêm luận án Tiến sĩ Ngữ văn của Nguyễn Thị Ngọc Điệp “Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt", và cuốn sách "Thiên nhiên với văn hóa vùng qua ca dao trữ tình Trung Bộ" của Nguyễn Thị Kim Ngân, NXB Thời Đại, 2012, và NXB KHXH, 2015. 3) Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb.KHXH, HN, 1974, tr.179. 23 4) Trần Đình Hượu, tuyển tập, tập 2, Nxb Giáo dục, HN, 2007, tr.319. 5) “Chủ thể trữ tình của ca dao, dù là chàng trai hay cô gái, người vợ hay người mẹ, người làm ruộng hay làm nghề sông nước khi cảm nghĩ về thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ và tiếng hát cất lên thành bài ca thở than về mọi nông nỗi khổ đau và bất hạnh của kiếp người , “nghe rặt một điều hắt hiu, thương nhớ”(Đỗ Bình Trị, Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb Giáo dục, HN, 1999, tr.197). 6) Hà Văn Tấn, Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, HN, 2005, tr.159. 7) Đinh Gia Khánh, Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám, Nxb.Văn học, HN, 1968, tr.96. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Du (2002), Truyện Kiều, Nxb Văn học. 2. Nguyễn Thị Ngọc Điệp, Biểu tượng nghệ thuật trong ca dao truyền thống người Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn. 3. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb KHXH, HN. 4. Trần Đình Hượu (2007), Tuyển tập, tập 2, Nxb Giáo dục, HN. 5. Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên (1972), Lịch sử văn học Việt Nam: Văn học Dân gian, Tập I, Nxb ĐH & THCN, Hà Nội. 6. Đinh Gia Khánh (1968), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám, Nxb Văn học, HN. 7. Nguyễn Xuân Kính (2001), Kho tàng ca dao người Việt (2 tập), Nxb Văn hóa thông tin. 8. Nguyễn Thị Kim Ngân (2012), Thiên nhiên với văn hóa vùng qua ca dao trữ tình Trung Bộ, Nxb Thời Đại (2012); và Nxb KHXH (2015). 9. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hóa thông tin, HN. 10. Hà Văn Tấn (2005), Đến với lịch sử văn hóa Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, HN. 11. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb Giáo dục, HN. Ngày nhận bài: 07/01/2016 Biên tập xong: 15/02/2016 Duyệt đăng: 20/02/2016
File đính kèm:
- chat_dan_gian_cua_truyen_kieu.pdf