Chất dân gian của Truyện Kiều

Truyện Kiều là tác phẩm lớn của văn học dân tộc, một truyện thơ cổ điển kết hợp nhuần nhuyễn của tính

dân gian và tính bác học. Chất dân gian của Truyện Kiều thể hiện trong cách nói, cách cảm, cách nghĩ

của người tường thuật và các nhân vật, trong thi pháp cũng như trong nội dung tư tưởng – tình cảm của

tác phẩm. Sự tổng hợp hoàn chỉnh của chất bác học và chất dân gian góp phần làm cho Truyện Kiều

trường tồn và được phổ biến rộng rãi.

Chất dân gian của Truyện Kiều trang 1

Trang 1

Chất dân gian của Truyện Kiều trang 2

Trang 2

Chất dân gian của Truyện Kiều trang 3

Trang 3

Chất dân gian của Truyện Kiều trang 4

Trang 4

Chất dân gian của Truyện Kiều trang 5

Trang 5

Chất dân gian của Truyện Kiều trang 6

Trang 6

Chất dân gian của Truyện Kiều trang 7

Trang 7

Chất dân gian của Truyện Kiều trang 8

Trang 8

Chất dân gian của Truyện Kiều trang 9

Trang 9

Chất dân gian của Truyện Kiều trang 10

Trang 10

pdf 10 trang Trúc Khang 08/01/2024 4220
Bạn đang xem tài liệu "Chất dân gian của Truyện Kiều", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Chất dân gian của Truyện Kiều

Chất dân gian của Truyện Kiều
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 12 (37) - Thaùng 2/2016 
14 
Chất dân gian của Truyện Kiều 
The folk quality of Kieu Tale 
TS. Nguyễn Thị Kim Ngân, 
Trường Đại học Sài Gòn 
Ph.D. Nguyen Thi Kim Ngan, 
Sai Gon University 
Tóm tắt 
Truyện Kiều là tác phẩm lớn của văn học dân tộc, một truyện thơ cổ điển kết hợp nhuần nhuyễn của tính 
dân gian và tính bác học. Chất dân gian của Truyện Kiều thể hiện trong cách nói, cách cảm, cách nghĩ 
của người tường thuật và các nhân vật, trong thi pháp cũng như trong nội dung tư tưởng – tình cảm của 
tác phẩm. Sự tổng hợp hoàn chỉnh của chất bác học và chất dân gian góp phần làm cho Truyện Kiều 
trường tồn và được phổ biến rộng rãi. 
Từ khóa: chất dân gian, Truyện Kiều, Nguyễn Du, chất bác học 
Abstract 
Kieu Tale is a masterpiece of traditional literary. It is a tale of classical poetry that marries the folk 
poetry with the savant. The folk substances of Kieu Tale can be found in the manners how the narrators 
and the literary characters tell and perceive in term of poetics and thoughts and feeling as well. The 
perfect aggregation of the savant and folk quality makes the Kieu Tale everlasting and widespread. 
Keywords: folk substance, Kieu Tale, Nguyen Du, the savant 
Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác 
phẩm lớn của văn học dân tộc. Một trong 
những đặc điểm quan trọng của Truyện 
Kiều là sự kết hợp nhuần nhuyễn tính dân 
gian và tính bác học. Đặc điểm này đã tạo 
nên giá trị và tính phổ biến của tác phẩm, 
làm cho Truyện Kiều được lưu truyền rộng 
rãi trong nhân dân từ đời này sang đời khác. 
Chất dân gian trong Truyện Kiều bộc lộ qua 
cách nói, cách cảm và cách nghĩ của 
Nguyễn Du, của người tường thuật cũng 
như của các nhân vật trong tác phẩm. Tìm 
hiểu chất dân gian của Truyện Kiều sẽ giúp 
chúng ta hiểu thêm vì sao tác phẩm của 
Nguyễn Du trường tồn qua thời gian, gần 
gũi với công chúng và được yêu mến 
rộng rãi. 
Kết thúc Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: 
Lời quê chắp nhặt dông dài 
Mua vui cũng được một vài trống canh 
“Lời quê”ở đây có thể hiểu là cách nói 
khiêm tốn của Nguyễn Du, nhưng đồng 
thời cũng có thể hiểu là ông nói thực khi 
không làm thơ bằng chữ Hán mà bằng chữ 
Nôm, khi không sử dụng những thể thơ tứ 
tuyệt hay thất ngôn với niêm luật chặt chẽ 
mà dùng thể thơ lục bát mà chắc chắn cho 
đến lúc đó vẫn còn được xem là tiếng nói 
của người dân quê. Việc chọn thể thơ lục 
bát để kể lại Kim Vân Kiều truyện đã đưa 
15 
tác phẩm của Nguyễn Du vào hàng các 
truyện Nôm và vì vậy ngay từ đầu nó đã 
mang chất dân gian rất rõ. 
Vì sao một ông quan, một nhà Nho 
dòng dõi, tác giả của Nam trung tạp ngâm, 
Bắc hành tạp lục lại chọn dịch một truyện 
tài tử - giai nhân như Kim Vân Kiều truyện 
và chọn một thể thơ “quê” như lục bát? Có 
lẽ bởi vì Nguyễn Du thuộc lớp “nhà nho tài 
tử” (chữ của Trần Đình Hượu), muốn tìm 
một chút phóng túng trong những câu 
chuyện tài tử - giai nhân và trong một thể 
thơ bình dân, thoải mái, thoát khỏi “luật 
thơ nghiêm như luật hình” (Phạm Quỳnh) 
để thõa mãn một phần cái chất phi chính 
thống, ý thức tự do trong con người nghệ sĩ 
của nhà thơ. Cũng có lẽ vì những năm trẻ 
tuổi Nguyễn Du đã từng sống ở Tiên Điền, 
thường sang Trường Lưu chơi và hát 
phường vải. Những câu hát dân gian đã để 
lại trong Nguyễn Du ấn tượng sâu sắc và 
thị hiếu thẩm mỹ của nhà thơ đã chịu ảnh 
hưởng một phần của thị hiếu dân gian. Có 
lẽ chính vì thế mà Nguyễn Du đã chọn “lời 
quê” để kể câu chuyện về đời Kiều và nhờ 
“lời quê” ấy, tác phẩm của nhà thơ đã 
nhanh chóng đi vào quần chúng và bước 
vào quỹ đạo của những giá trị văn hóa 
truyền thống đậm đà bản sắc dân gian. 
Lục bát là “lời quê", nhưng “lời quê” 
không chỉ thể hiện trong lối nói bằng câu 
thơ lục bát. Trong Truyện Kiều chúng ta 
bắt gặp rất nhiều câu thơ gần với lời ăn 
tiếng nói hàng ngày của người bình dân: 
Quá niên trạc ngoại tứ tuần 
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao 
Cò kè bớt một thêm hai 
Hồi lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm 
Lo gì việc ấy mà lo 
Kiến trong miệng chén có bò đi đâu 
Thậm chí có những câu không khác gì 
những lời nói dân dã: 
Lại còn bưng bít dấu quanh 
Làm chi những thói trẻ ranh nực cười 
Bây giờ đất thấp trời cao 
Ăn làm sao nói làm sao bây giờ? 
Bề ngoài thơn thớt nói cười 
Mà trong nham hiểm giết người không dao 
Đặc biệt có những câu đúng là lời quê 
vì ở đây có những chữ, những cách nói mà 
có lẽ chỉ người dân quê mới biết, mới 
dùng, ví dụ: 
Ông bà càng nói càng đau 
Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa 
(Bản của Đào Duy Anh chép:.. “càng rầu 
như dưa”) 
Hay: 
Kẻo khi sấm sét bất kỳ 
Con ong cái kiến kêu gì được oan 
Cho gươm mời đến Thúc Lang 
Mặt như chàm đổ mình dường giẻ (dẽ) run 
Tuy nhiên nếu nói đến chất gian trong 
cách nói của Nguyễn Du, phải thừa nhận 
rằng việc sử dụng tục ngữ và thành ngữ 
trong Truyện Kiều là yếu tố gây ấn tượng 
hết sức mạnh mẽ. Nhiều thành ngữ như “ăn 
xổi ở thì”, “miệng hùm nọc rắn”, “mèo mả 
gà đồng”... đã  ...  ướt đầm cả năm 
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ 
Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai 
Thương cha thương mẹ có khi 
Thương em lúc đứng lúc đi lúc ngồi 
Thương thương nhớ nhớ sầu sầu 
Một ngày ba bận ra cầu đứng trông 
Anh buồn có chốn thở than 
Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya 
Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu 
Để ai trăng tỏ hoa sầu vì ai 
Đọc Truyện Kiều chúng ta như bắt gặp 
cũng tâm trạng ấy. Tác phẩm của Nguyễn 
Du giống bản đàn mà Thúy Kiều gẩy cho 
Kim Trọng buổi đầu gặp gỡ: 
Rằng: Hay thì thật là hay 
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào 
Và dù Nguyễn Du có cố tình “mua 
vui” (Mua vui cũng được một vài trống 
canh) thì đọc Truyện Kiều cũng chẳng ai 
vui được. Âm điệu chính của Truyện Kiều 
19 
cũng tương tự như ca dao trữ tình, tràn đầy 
nỗi nhớ, buồn, thương: 
Tìm đâu cho thấy cố nhân 
Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương 
Chạnh lòng nhớ cảnh tha hương 
Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê 
Không chỉ Thúc Sinh nhớ. Thúy Kiều 
càng nhớ nhiều hơn. Nhớ Kim Trọng, nhớ 
Thúc Sinh, nhớ nhà, nhớ cha, nhớ mẹ, nhớ 
em. Trăm năm nỗi nhớ vây lấy người con 
gái bán mình, lưu lạc, xa quê. Và cùng với 
nhớ là thương. 
Thương cha thương mẹ: 
Xót thay huyên cỗi xuân gìà 
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi 
Thương nhớ người yêu: 
Sông Tương một dải nông sờ 
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia 
Thương mình: 
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh 
Giật mình mình lại thương mình xót xa 
Thương, nhớ và buồn: 
Buồn trông phong cảnh quê người 
Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa 
Nỗi buồn theo chân Kiều suốt chặng 
đường mười lăm năm lưu lạc: 
Sen tàn cúc lại nở hoa 
Sầu dài ngay ngắn đông đà sang xuân 
Buồn ám ảnh Kim Trọng, Thúc Sinh, 
cha mẹ Thúy Kiều và bám chặt đời Kiều: 
Sầu này dằng dặc muôi đời chưa quên 
Nỗi buồn xuyên suốt Truyện Kiều như 
khúc “đoạn trường Tân Thanh, như tiếng 
kêu não ruột. Âm điệu chung của Truyện 
Kiều cũng như âm điệu chung của ca dao 
trữ tình truyển thống. Cái điệu tình cảm 
trong câu thơ Kiều”. 
Buồn trông cửa bể chiều hôm 
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa 
Nghe như phảng phất âm điệu câu ca dao: 
Chiều chiều én liệng nhạn bay 
Ta đây nhớ bạn, bạn rày nhớ ai 
Hay: 
Buồn trông chênh chếch sao mai 
Sao ơi sao hỡi, nhớ ai sao mờ 
 Nhưng cái điệu tình cảm NHỚ, 
THƯƠNG, BUỒN chỉ là một phần trong 
những thứ tạo nên chất dân gian trong cách 
cảm của Nguyễn Du. Quan trọng là bên 
cạnh cái giọng tình cảm ấy, trong cái ruột 
của nó, chúng ta thấy tấm lòng của Nguyễn 
Du thương xót con người, đồng cảm với 
thân phận người phụ nữ, thậm chí Nguyễn 
Du còn như đau hơn, phẫn uất hơn ca dao 
chỉ nói: 
Thân em như tấm lụa đào 
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai 
Nhưng trong Truyện Kiều, số phận 
người phụ nữ như cay nghiệt hơn: 
Đau đớn thay phận đàn bà 
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung 
Cái câu “Lời rằng bạc mệnh cũng là 
lời chung” này có ý nghĩa khái quát rất lớn. 
Nó nói lên rằng “bạc mệnh” không chỉ có 
Thúy Kiều, không chỉ có những người tài 
sắc mà là với “phận đàn bà” nói chung. Và 
đã là “lời chung” thì cũng không phải chỉ 
“phận đàn bà” mà còn là của kiếp người. 
Nguyễn Du nhiều lần than về kiếp người 
đau khổ: 
Khéo là mặt dạn mày dày 
Kiếp người đã đến thế này thì thôi 
Thương thay cũng một kiếp người 
Khéo thay mang lấy sắc tài làm chi! 
Xét về một phương diện nào đó, có 
thể nói Truyện Kiều không phải là bức 
tranh về hiện thực xã hội phong kiến thối 
nát, cũng không phải câu chuyện oan trái 
về tài và mệnh mà chính là câu chuyện về 
kiếp người, những thăng trầm trong kiếp 
làm người. Thúy Kiều chỉ là hình ảnh 
tượng trưng cho nỗi khổ chung của kiếp 
người. Nỗi khổ ấy hiện diện đầy đủ nhất ở 
thân phận người phụ nữ và càng rõ nét hơn 
20 
ở người phụ nữ có tình, có sắc, có tài, 
nhưng trên hết nó là nỗi khổ chung của 
kiếp người và cái lớn của Nguyễn Du, cái 
làm nên tính phổ biến của Truyện Kiều 
chính là nêu lên được nỗi đau chung ấy. 
“Cái ám ảnh ông không phải là những cuộc 
đời cụ thể mà là cái số kiếp chung” (Trần 
Đình Hượu)(4). Người bình dân yêu mến 
Truyện Kiều không chỉ vì cảm thương số 
phận hồng nhan bạc mệnh của Thúy Kiều 
mà cái chính là qua nỗi đau của người con 
gái tài sắc, qua thân phận của người phụ nữ 
họ thấy được cái tình với nỗi đau chung 
của kiếp người, cái kiếp người mà họ vẫn 
thường than vãn trong ca dao: 
Bắc thang lên hỏi ông Trời 
Cớ sao nỡ để kiếp người đắng cay(5) 
Cái tình ấy lớn đến mức nhiều lúc nó 
vượt lên trên cái lí thông thường, biến 
thành lòng vị tha, khoan dung, có sức 
thuyết phục hơn cả mọi lý lẽ. Trong 
Truyện Kiều, khi Sư Tam Hợp nói rằng 
Thúy Kiều “Mắc điều tình ái khỏi điều tà 
dâm” thì đó chính là sự phán xét không 
phải dựa trên cái lý của đạo đức phong 
kiến mà dựa trên cái lí của chữ tình. Điểu 
này lại càng rõ hơn nữa khi chúng ta nghe 
Kim Trọng lý giải về chữ Trinh. Đáp lại lời 
từ chối của Thúy Kiều khi tái hợp, muốn 
“Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ” với lí do 
Thiếp từ ngộ biến đến giờ 
Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa 
Kim Trọng khăng khăng một mực 
không bằng lòng với lí lẽ rằng: 
Xưa nay trong đạo đàn bà 
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường 
Và vì “nàng lấy hiếu làm trinh” nên 
“Bụi nào cho đục được mình ấy vay?”. Nói 
rằng “lấy hiếu làm trinh” và “chữ trinh kia 
cũng có ba bảy đường" thì cũng có cái lí 
của nó, nhưng đó có lẽ không phải là cái lí 
theo cách nghĩ thông thường; nó là cái lí 
của tình yêu thương, lòng vị tha. Sự phán 
xét dựa trên lòng yêu thương, sự khoan 
dung ấy của Nguyễn Du cũng như của các 
nhân vật của Truyện Kiều cũng là một nét 
chung của văn hóa Việt. “Lòng nhân ái, 
khoan dung, sống rộng bụng, có tình nghĩa 
là truyền thống quí báu của nhân dân ta. 
Tính nhân bản này được này sinh từ tính ôn 
nhu của người làm nông nghiệp lúa nước, 
hẳn đã được hình thành từ thời Đông Sơn” 
(Hà Văn Tấn)(6). 
Tấm lòng thương người, sự thông cảm 
với nỗi đau khổ của người phụ nữ và của 
kiếp người là mẫu số chung của Truyện 
Kiều và ca dao, của Nguyễn Du và quần 
chúng nhân dân. Cái tình ấy, lòng nhân ái 
ấy là cái lõi của chất dân gian trong tác 
phẩm Nguyễn Du. 
Cái lõi ấy lại được nhân lên, được tô 
đậm bởi sự gần gũi trong cách nghĩ, cách 
hành xử của các nhân vật, của người kể 
chuyện trong Truyện Kiều với cách nghĩ và 
lối hành xử của người dân quê. Dân gian 
tìm thấy trong Truyện Kiều không chỉ sự 
đồng điệu trong cách nói, cách diễn tả, trong 
cách nhớ, cách thương mà cả trong cách coi 
cái gì là trọng là khinh, cái gì là hợp với đạo 
lí, cái gì đáng ca ngợi cái gì không. Chẳng 
hạn hành động Thúy Kiều bán mình chuộc 
cha và câu thơ của Nguyễn Du: 
Để lời thệ hải minh sơn 
Làm con trước hãy đền ơn sinh thành 
Chắc chắn rất gần gũi với suy nghĩ của 
quần chúng lao động thể hiện trong câu ca dao: 
Công cha như núi Thái Sơn 
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra 
Tấm lòng hiếu nghĩa của Thúy Kiều 
đã được một đại diện của dân gian là Vãi 
Giác Duyên đánh giá rất cao: 
Người sao hiếu nghĩa đủ đường 
21 
Cái hiếu của Thúy Kiều cũng chính là 
cái hiếu được đề cao trong các truyện cổ 
tích, trong ca dao: 
Con ơi cho trọn hiếu trung 
Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy 
Chữ trung thì để phần cha 
Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình 
Trung hiếu ở đây không còn là đạo đức 
phong kiến mà chính là đạo đức làm người 
theo quan điểm của nhân dân lao động, là 
đạo lí bình dân. Bởi vậy người bình dân khi 
đọc Truyện Kiều thấy trong thái độ và cách 
nghĩ của Nguyễn Du trong cách hành xử 
của Thúy Kiều một cái gì đó gần với mình, 
dễ chia sẻ được. Ngay cái cảnh Thúy Kiều 
báo ân báo oán gây nhiều tranh cãi, theo 
chúng tôi cũng không xa lạ với tâm lí của 
người dân quê. Khi Từ Hải nói: 
 Ân oán hai bên 
Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh 
Và Kiều khẳng định “báo ân rồi sẽ trả 
thù” thì hành động của Kiều cũng giống 
như hành động của cô Tấm trừng phạt Cám 
và mẹ ghẻ trong truyện cổ tích. Ở đây cách 
hành xử của Thúy Kiều và Tấm hoàn toàn 
phù hợp với đạo lí dân gian, đúng như ý 
kiến của Đinh Gia Khánh khi viết về cái 
chết của mẹ con người dì ghẻ trong truyện 
Tấm Cám: “Biết yêu và biết ghét, đó là hai 
mặt khăng khít trong tình cảm của nhân 
dân”(7). Cái lí lẽ mà Kiều dựa vào đó để 
báo oán: 
Nàng rằng: Lồng lộng trời cao 
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta! 
Cũng chính là lí lẽ của dân gian được 
đúc kết trong tục ngữ: “Ác giả ác báo”, 
“Trời quả báo, ăn cháo gãy răng”, “Ai bảo 
trời không có mắt”. 
Trong Truyện Kiều, nếu xem xét kỹ, 
chúng ta sẽ nhận thấy có khá nhiều dấu vết 
của quan niệm, cách nghĩ dân gian. Chẳng 
hạn trong Truyện Kiều có 8 lần Nguyễn Du 
gọi Từ Hải là anh hùng. Hình ảnh Từ Hải 
phần nào phản ánh chất phi chính thống 
của nhà Nho tài tử Nguyễn Du, nhưng chắc 
cũng có một phần in dấu quan niệm anh 
hùng nghĩa hiệp mà Nguyễn Du chịu ảnh 
hưởng qua sáng tác dân gian. Đọc câu thơ 
trong Truyện Kiều: 
Một đời được mấy anh hùng 
Bõ chi cá chậu chim lồng mà chơi! 
Hay: 
Anh hùng đã tiếng gọi rằng 
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha 
Chúng ta thấy như phảng phất hơi ca dao: 
Của đời muôn sự của chung 
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi 
Đặc biệt trong Truyện Kiều chúng ta 
bắt gặp rất nhiều chữ Trời, Phật, Đạo, Tiên 
gắn với hình ảnh hai nhân vật Vãi Giác 
Duyên và sư cô Tam Hợp. Có thể nói với sự 
hiện diện của Giác Duyên và sư Tam Hợp, 
thế giới tín ngưỡng của Truyện Kiều gần 
với sinh hoạt tín ngưỡng dân gian hơn là tôn 
giáo chính thống. Ở đây cũng có báo mộng, 
bói toán, lập đàn cúng bái, ở đây Trời, Phật, 
Đạo, Tiên cũng tồn tại, gần gũi với con 
người. Nhân vật của Nguyễn Du cũng hành 
động như con người trong ca dao, cũng có 
chung một kiểu tín ngưỡng như nhau: 
Phải điều cầu Phật cầu Tiên 
Tình kia hiếu nọ ai đền cho ai 
(Truyện Kiều) 
Lên chùa cầu Phật cầu Trời 
Xét cho mọi việc ở đời bất công 
(Ca dao) 
Đặc biệt cái lối nghĩ về Trời trong 
Truyện Kiều rất giống lối nghĩ về Trời 
thường gặp trong truyện cổ tích và ca dao. 
Tương tự như quan niệm dân gian, trong 
Truyện Kiều, Trời hiện ra như đấng tối cao 
vô hình, quyết định tất cả: 
Ngẫm hay muôn sự tại Trời 
Trời còn để có hôm nay 
22 
Người dầu muốn quyết Trời nào đã cho 
Biết thân chạy chẳng khỏi Trời 
(Truyện Kiều) 
Giống như trong ca dao: 
Nhờ Trời hòa cốc phong đăng 
Cấy lúa, lúa tốt, nuôi tằm, tằm tươi 
Nhờ Trời mưa thuận gió hòa 
Lờ rọ bán được, cảnh nhà thêm vui 
Lạy Trời cho cả gió lên 
Cho manh chiếu rách lên trên toàn vùng 
(Ca dao) 
Ai làm gì sai sẽ cảm thấy có tội với Trời: 
Trăm điều ngang ngửa vì tôi 
Thân sau ai chịu tội Trời ấy cho 
(Truyện Kiều) 
Hay gì lừa đảo kiếm lời 
Một nhà ăn uống tội Trời riêng mang 
(Ca dao) 
Trời là chỗ để người ta than vãn, kêu 
oan, oán trách khi không còn biết dựa vào 
đâu để trút nỗi khổ, nỗi bất công mà mình 
phải chịu: 
Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên 
Oan này còn một kêu trời nhưng xa 
(Truyện Kiều) 
Tôi làm tôi chẳng có chơi 
Nghèo đâu nghèo mãi Trời ơi hỡi Trời! 
Trời ơi Trời ở chẳng câu 
Kẻ ăn không hết người lần không ra 
(Ca dao) 
Tuy nhiên tín ngưỡng “Đạo Trời” 
trong Truyện Kiều (“Sư rằng: phúc họa đạo 
Trời”, “Đạo Trời báo phục chỉn ghê”) cũng 
giống như trong ca dao, không hoàn toàn 
mù quáng và yếm thế. Cái câu: “Có trời mà 
cũng tại ta”trong Kiều cũng không xa vời 
cách nghĩ của người nông dân: 
Được thua dù có tại trời 
Chớ thấy sóng cả mà rời tay co 
(Ca dao) 
Có thể nói trong Truyện Kiều có rất 
nhiều chi tiết, nhiều câu thơ mà ở đó chúng 
ta thấy cách nghĩ, quan niệm của người 
tường thuật và của các nhân vật về đạo lí, 
cách sống, tín ngưỡng, rất gần với người 
bình dân thể hiện qua truyện cổ tích, ca 
dao. Điều này cũng không có gì lạ. Chính 
Nguyễn Du trong bài thơ chữ Hán “Thanh 
minh ngẫu hứng” đã từng viết: 
Thôn ca sơ học tang ma ngữ 
Dã khốc thời văn chiến phạt thanh 
(Câu ca nơi thôn dã giúp ta biết được 
tiếng nói của người trồng gai trồng dâu. 
Trong tiếng khóc nơi đồng nội như nghe 
thấy tiếng chiến tranh). 
Bên cạnh tài năng, những năm tháng 
sống gần gũi với thôn quê đã giúp Nguyễn 
Du học được cách nói của những bài “thôn 
ca”, hiểu và chia sẻ với cách cảm, cách 
nghĩ của những người bình dân mà ông 
tiếp xúc cũng như với những gì đã được 
thể hiện qua các sáng tác dân gian. Điều đó 
đã làm cho Truyện Kiều trở thành một hiện 
tượng đặc biệt, tổng hợp chất bác học và 
chất dân gian thành một truyện thơ cổ điển 
của văn học dân tộc. Giá trị và sức sống 
bền bỉ của Truyện Kiều, tính phổ biến và 
bản sắc dân tộc của tác phẩm nằm trong sự 
tổng hợp ấy. 
Chú thích 
1) Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diện, Lịch sử 
văn học Việt Nam: Văn học Dân gian, Tập I, 
Nxb ĐH & THCN, Hà Nội, 1972, tr.291. 
2) Về biểu tượng thiên nhiên trong ca dao, xin 
xem thêm luận án Tiến sĩ Ngữ văn của 
Nguyễn Thị Ngọc Điệp “Biểu tượng nghệ 
thuật trong ca dao truyền thống người Việt", 
và cuốn sách "Thiên nhiên với văn hóa vùng 
qua ca dao trữ tình Trung Bộ" của Nguyễn 
Thị Kim Ngân, NXB Thời Đại, 2012, và NXB 
KHXH, 2015. 
3) Cao Huy Đỉnh, Tìm hiểu tiến trình văn học dân 
gian Việt Nam, Nxb.KHXH, HN, 1974, tr.179. 
23 
4) Trần Đình Hượu, tuyển tập, tập 2, Nxb Giáo 
dục, HN, 2007, tr.319. 
5) “Chủ thể trữ tình của ca dao, dù là chàng trai 
hay cô gái, người vợ hay người mẹ, người làm 
ruộng hay làm nghề sông nước khi cảm 
nghĩ về thân phận mình là thấy buồn, thấy khổ 
và tiếng hát cất lên thành bài ca thở than về 
mọi nông nỗi khổ đau và bất hạnh của kiếp 
người , “nghe rặt một điều hắt hiu, thương 
nhớ”(Đỗ Bình Trị, Những đặc điểm thi 
pháp của các thể loại văn học dân gian, Nxb 
Giáo dục, HN, 1999, tr.197). 
6) Hà Văn Tấn, Đến với lịch sử văn hóa Việt 
Nam, Nxb Hội Nhà văn, HN, 2005, tr.159. 
7) Đinh Gia Khánh, Sơ bộ tìm hiểu những vấn 
đề của truyện cổ tích qua truyện Tấm Cám, 
Nxb.Văn học, HN, 1968, tr.96. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Du (2002), Truyện Kiều, Nxb Văn học. 
2. Nguyễn Thị Ngọc Điệp, Biểu tượng nghệ 
thuật trong ca dao truyền thống người Việt, 
Luận án Tiến sĩ Ngữ văn. 
3. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn 
học dân gian Việt Nam, Nxb KHXH, HN. 
4. Trần Đình Hượu (2007), Tuyển tập, tập 2, 
Nxb Giáo dục, HN. 
5. Đinh Gia Khánh – Chu Xuân Diên (1972), 
Lịch sử văn học Việt Nam: Văn học Dân 
gian, Tập I, Nxb ĐH & THCN, Hà Nội. 
6. Đinh Gia Khánh (1968), Sơ bộ tìm hiểu 
những vấn đề của truyện cổ tích qua truyện 
Tấm Cám, Nxb Văn học, HN. 
7. Nguyễn Xuân Kính (2001), Kho tàng ca dao 
người Việt (2 tập), Nxb Văn hóa thông tin. 
8. Nguyễn Thị Kim Ngân (2012), Thiên nhiên với 
văn hóa vùng qua ca dao trữ tình Trung Bộ, 
Nxb Thời Đại (2012); và Nxb KHXH (2015). 
9. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách 
tiếp cận mới, Nxb Văn hóa thông tin, HN. 
10. Hà Văn Tấn (2005), Đến với lịch sử văn hóa 
Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn, HN. 
11. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi 
pháp của các thể loại văn học dân gian, 
Nxb Giáo dục, HN. 
Ngày nhận bài: 07/01/2016 Biên tập xong: 15/02/2016 Duyệt đăng: 20/02/2016 

File đính kèm:

  • pdfchat_dan_gian_cua_truyen_kieu.pdf