Cách sử dụng danh từ đơn vị Tiếng Việt – Dưới góc độ dạy tiếng

Danh từ đơn vị tiếng Việt (thường được biết dưới cái tên “danh từ đếm được” hoặc “loại từ”) đã được nhiều nhà ngôn ngữ học nghiên cứu. Tuy nhiên, người nước ngoài học tiếng Việt gặp khó khăn lớn khi tiếp xúc với vấn đề ngữ pháp này. Trong bài viết, tác giả đã cố gắng công thức hóa các cách sử dụng danh từ đơn vị tiếng Việt để tạo thuận lợi cho học viên nước ngoài khi học tiếng Việt. Bên cạnh đó, tác giả cũng tập trung diễn giải những trường hợp mà danh từ đơn vị được sử dụng tùy ý (có thể có hoặc không).

Cách sử dụng danh từ đơn vị Tiếng Việt – Dưới góc độ dạy tiếng trang 1

Trang 1

Cách sử dụng danh từ đơn vị Tiếng Việt – Dưới góc độ dạy tiếng trang 2

Trang 2

Cách sử dụng danh từ đơn vị Tiếng Việt – Dưới góc độ dạy tiếng trang 3

Trang 3

Cách sử dụng danh từ đơn vị Tiếng Việt – Dưới góc độ dạy tiếng trang 4

Trang 4

Cách sử dụng danh từ đơn vị Tiếng Việt – Dưới góc độ dạy tiếng trang 5

Trang 5

Cách sử dụng danh từ đơn vị Tiếng Việt – Dưới góc độ dạy tiếng trang 6

Trang 6

Cách sử dụng danh từ đơn vị Tiếng Việt – Dưới góc độ dạy tiếng trang 7

Trang 7

Cách sử dụng danh từ đơn vị Tiếng Việt – Dưới góc độ dạy tiếng trang 8

Trang 8

Cách sử dụng danh từ đơn vị Tiếng Việt – Dưới góc độ dạy tiếng trang 9

Trang 9

Cách sử dụng danh từ đơn vị Tiếng Việt – Dưới góc độ dạy tiếng trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 14 trang Trúc Khang 11/01/2024 4260
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Cách sử dụng danh từ đơn vị Tiếng Việt – Dưới góc độ dạy tiếng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cách sử dụng danh từ đơn vị Tiếng Việt – Dưới góc độ dạy tiếng

Cách sử dụng danh từ đơn vị Tiếng Việt – Dưới góc độ dạy tiếng
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 56 
Cách sử dụng danh từ đơn vị tiếng Việt – 
dưới góc độ dạy tiếng 
 Lê Thị Minh Hằng 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM 
TÓM TẮT: 
 Danh từ đơn vị tiếng Việt (thường được biết 
dưới cái tên “danh từ đếm được” hoặc “loại từ”) 
đã được nhiều nhà ngôn ngữ học nghiên cứu. 
Tuy nhiên, người nước ngoài học tiếng Việt 
gặp khó khăn lớn khi tiếp xúc với vấn đề ngữ 
pháp này. Trong bài viết, tác giả đã cố gắng 
công thức hóa các cách sử dụng danh từ đơn 
vị tiếng Việt để tạo thuận lợi cho học viên nước 
ngoài khi học tiếng Việt. Bên cạnh đó, tác giả 
cũng tập trung diễn giải những trường hợp mà 
danh từ đơn vị được sử dụng tùy ý (có thể có 
hoặc không). 
Từ khóa: loại từ, danh từ đơn vị, danh từ khối 
1. Dẫn nhập 
Trong mươi năm gần đây, cùng với quá trình 
dạy tiếng Việt với tư cách là một ngôn ngữ thứ hai, 
có rất nhiều vấn đề lộ ra, cho thấy ngữ pháp tiếng 
Việt chưa thật sự được lập thức một cách đầy đủ và 
hệ thống. Loại từ là một trong những vấn đề như 
thế. Có thể nói, đối với người nước ngoài, đây là 
một thách thức lớn đeo đẳng họ từ những giờ đầu 
tiên theo học đến khi họ được xem là thành thạo 
tiếng Việt. 
Thật ra, danh từ đơn vị là một trong những khái 
niệm ngữ pháp được rất nhiều nhà nghiên cứu tập 
trung khảo sát (Nguyễn Tài Cẩn, Lý Toàn Thắng, 
Hồ Lê, Trần Đại Nghĩa, Vũ Đức Nghiệu, Cao Xuân 
Hạo, v.v.) với tên gọi “từ chỉ loại”, “danh từ chỉ 
loại”, “danh từ đơn thể”, (và phổ biến nhất là) “loại 
từ”; và diện mạo của nó ngày càng trở nên rõ ràng 
hơn. 
Đặc biệt, với hàng loạt công trình trong những 
năm 1990, Cao Xuân Hạo đã đứng hẳn trên bình 
diện ngữ pháp để xử lý danh từ đơn vị trong khuôn 
khổ của một cấu trúc danh ngữ, dù rằng quan niệm 
của ông có nhiều điểm vẫn còn đang tranh cãi [5] 
[7]. 
Theo Cao Xuân Hạo, danh từ đơn vị là loại danh 
từ chỉ những hình thức tồn tại của các thực thể phân 
lập trong không gian, thời gian hay trong một chiều 
nào khác được hình dung giống với không gian, có 
thể được tri giác tách ra khỏi bối cảnh và khỏi các 
thực thể khác, kể cả các thực thể cùng tên; chẳng 
hạn: bên, bó, cái, con, dãy, kí, khẩu, phía, thước, 
viên, xâu, yến, v.v.. 
Theo danh sách mà Cao Xuân Hạo đưa ra thì 
danh từ đơn vị có thể bao gồm các danh từ đếm 
được như cái, chiếc, tấm, con, trái, bức, cục, viên, 
thanh,... hoặc nhóm danh từ chỉ những đơn vị tính 
toán gồm lít, thước, ký, tấn, thúng, ly, muỗng, 
bao, hoặc nhóm danh từ chỉ những sự vật đếm 
được là những đơn vị hành chính như tỉnh, huyện, 
xã, phường, v.v.. 
Cao Xuân Hạo đã lập thức một cách hết sức cụ 
thể rằng trong cấu trúc danh ngữ có danh từ đơn vị 
làm trung tâm có thể có các định ngữ sau [4: 90-
91]: 
Định ngữ chỉ lượng: đứng trước là các lượng 
ngữ (các lượng từ xác định – một , hai, ba, bốn, 
năm,... – và các lượng từ không xác định: những, 
các, mọi, mỗi, từng, tất cả,...); đứng sau là các 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 57 
lượng từ mốt, hai, ba, tư, rưỡi, sáu, bảy, tám, chín; 
chẳng hạn: năm quyển sách, những ngôi nhà này, 
hai kí rưỡi thịt, một chục cam; 
Định ngữ chỉ loại: do danh từ khối đảm nhiệm; 
chẳng hạn: hai kí rưỡi thịt, một chục cam; 
Định ngữ hạn định: do ngữ danh từ, ngữ vị từ, 
tiểu cú (cụm chủ vị), đại từ chỉ định (này, ấy, kia, 
nọ, đó), số từ, các từ diễn đạt nghĩa “duy nhất” (đầu 
tiên, thứ nhất, cuối cùng, thứ bảy, đẹp nhất, v.v.) 
đảm nhiệm; chẳng hạn: quyển sách anh tặng tôi, 
quyển sách bìa màu đỏ ấy, bài thơ cuối cùng vừa 
viết xong ấy; 
Định ngữ miêu tả: nhằm bổ sung một ý, nhưng 
không nhằm hạn định cho trung tâm; chẳng hạn: bắt 
được một con cá mè to tướng. 
Trong khi đó, danh từ khối chỉ có thể có một 
định ngữ phía sau là định ngữ chỉ loại; chẳng hạn: 
thịt bò, cá biển, khoai tây. 
Danh từ đơn vị, nói chung, không có khả năng 
tự lập thành ngữ danh từ (trừ một vài điều kiện nhất 
định), cho nên nhận diện được các định ngữ cũng có 
nghĩa là nhận diện được các quan hệ ngữ pháp trong 
một ngữ đoạn danh từ. Điều đó, đối với người nước 
ngoài (học tiếng Việt) lại càng đặc biệt có ý nghĩa. 
Theo quan sát của chúng tôi, trong quá trình sản 
sinh ngôn ngữ (tự mình tạo ra phát ngôn), học viên 
nước ngoài thường xuất phát trước hết từ danh từ 
khối (và kế đó, từ các định ngữ theo sau) để xây 
dựng ngữ đoạn danh từ vì trong đầu họ cái đối 
tượng tri nhận được gọi tên bằng một danh từ khối 
(vì họ dịch từ tiếng mẹ đẻ ra) chứ không phải bằng 
một danh từ đơn vị. Chẳng hạn, khi nhìn thấy một 
quyển sách mới màu xanh, trong đầu họ sẽ xuất 
hiện tên gọi “sách” (chứ không phải là “cuốn”, càng 
không phải là “cuốn sách”) và sau đó, họ sẽ “gán” 
các thuộc tính cho “sách” (“mới”, “màu xanh” hoặc 
“xanh”, “này”); từ đó hình thành ngữ đoạn. Có thể 
nói, cái mà học viên nước ngoài cần chính là những 
“chỉ thị” nhằm trả lời câu hỏi “Khi nào thì cần danh 
từ đơn vị và khi nào thì không?”. Những “chỉ thị ...  một hiện tượng thường rất khó tiếp nhận 
đối với người nước ngoài: trong một số trường hợp, 
danh từ đơn vị ở phát ngôn trước khó đứng làm 
trung tâm cho một ngữ đoạn đóng vai trò hồi chỉ ở 
phát ngôn sau, nếu không có danh từ khối. Xét ví dụ 
sau: 
(83) Quý ròm lại lúi húi lục cặp lôi ra một thanh 
sô cô la. Nó đặt thanh kẹo vào tay nhỏ Diệp: “Cả 
cái này nữa, tao cũng trả cho mày.” (“Anh và em”, 
Nguyễn Nhật Ánh) 
Ở (83), “thanh kẹo” hồi chỉ “thanh sô cô la”, 
danh từ khối “kẹo” có ngoại diên rộng hơn “sô cô 
la” nên được lựa chọn, dù ở vị trí này “sô cô la” 
cũng hoàn toàn đúng về mặt ngữ pháp và ngữ 
nghĩa. “Cái này” hồi chỉ “thanh kẹo”, nhưng hầu 
như người Việt sẽ không chọn “thanh” thay cho 
“cái” (“Cả thanh này nữa, tao cũng trả cho mày”) 
trừ phi sau “thanh” có một danh từ khối (“Cả thanh 
kẹo này nữa, tao cũng trả cho mày”). 
Một ví dụ khác: 
(84) A: Tớ thấy thằng Tèo tặng cho con bé Thúy 
một hòn sỏi rất đẹp. 
 B: Nó lấy đâu ra cái/?hòn đó? 
Rõ ràng, “cái đó” dùng để hồi chỉ “hòn sỏi” tự 
nhiên hơn là “hòn đó”. 
Theo nhận xét của chúng tôi, trong tiếng Việt, 
những danh từ đơn vị mà khả năng kết hợp với định 
ngữ là danh từ khối của nó càng hẹp (có tính chất 
tình huống hoặc có tính chất tu từ) thì càng ít khả 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 65 
năng đứng một mình (không có danh từ khối) để tạo 
nên một ngữ đoạn hồi chỉ (thường là những từ có 
tần số sử dụng ít hơn). Chẳng hạn, trong các câu 
như “(Ngôi sao ở trước mặt đẹp quá!) Em có thích 
ngôi đó không?”, “(Em thấy con thuyền ở đằng xa 
không?) Con đó là của bố anh đấy!”, sự vắng mặt 
danh từ khối (“sao”, “thuyền”) là khó chấp nhận. 
Xét từ góc độ này thì cái, con, chiếc, loại, thứ, có lẽ 
là những danh từ “mạnh” nhất; còn những danh từ 
chỉ đơn vị tính toán, đo lường hầu như không thể 
tạo thành ngữ đoạn hồi chỉ (kiểu *“tấn đó”, *“lít 
kia”, *“thước này”). 
Tuy nhiên, đây là hiện tượng rất tinh tế về ngữ 
nghĩa. Do vậy, mô hình thích hợp nhất để giảng dạy 
cho học viên nước ngoài vẫn nên là [Dtđv + Dtk + 
này/kia/ấy/đó]. 
2.2.2. Danh từ đơn vị được sử dụng riêng lẻ 
(không cần danh từ khối) khi nó là trung tâm của 
một ngữ đoạn đóng vai trò thuyết minh, giải thích 
cho đối tượng đã được đặt làm đề/chủ ngữ. Có thể 
xem đây là một kiểu cấu trúc định nghĩa (hoặc giải 
thích), thường có mặt hệ từ “là”. Mô hình thường 
thấy là [Dtđv + Dtk + X là Dtđv + (Dtk) + Y], 
trong đó danh từ khối có thể không xuất hiện trong 
vế sau, Y là định ngữ dùng để diễn giải cho X 
(85) Bức tranh này là bức đẹp nhất trong phòng 
triển lãm. 
(86) Quyển sách đầu tiên mà ông ấy viết chính 
là quyển “Trăn trở”. 
Ở vế đầu của biểu thức trên, có thể là một ngữ 
đoạn biểu thị một thực thể có sở chỉ xác định: 
(87) Em là đứa em gái anh ít quan tâm nhất. 
Tất nhiên, các câu trên sẽ sai ngữ pháp nếu ngữ 
đoạn hồi chỉ vắng mặt danh từ đơn vị (vd: “Bức 
tranh này là tranh đẹp nhất...”, “Em là em gái anh ít 
quan tâm nhất”). 
Các biểu thức có hệ từ là như trên biểu thị một 
quan hệ đồng nhất giữa hai thực thể (cái được định 
nghĩa/giải thích và cái định nghĩa/giải thích), cho 
nên sự vắng mặt danh từ khối là rất tự nhiên. Ngoài 
trường hợp này, danh từ đơn vị vẫn đòi hỏi định 
ngữ là danh từ khối nếu sự vật được nói ở vế sau là 
một thực thể hoàn toàn khác với thực thể được nói ở 
vế trước, cho dù nó có thể giống nhau về tên gọi. 
Xét hai câu sau: 
(88) Quyển sách của tôi là quyển anh đang đọc. 
(89) ?Quyển sách của tôi dày hơn quyển anh 
đang đọc. 
Ở (88), “quyển sách của tôi” và “quyển anh 
đang đọc” là một. Trong khi đó, ở (89), “quyển sách 
của tôi” và “quyển anh đang đọc” là hai thực thể 
khác nhau; do vậy, có khả năng là chúng khác 
chủng loại (“quyển anh đang đọc” có thể là tạp chí, 
tạp san chứ không phải sách). Sự phân biệt tinh tế 
này thể hiện rõ hơn ở ví dụ sau đây: 
(90) Tôi đã nhìn thấy những chiếc xe tăng người 
Pháp bỏ lại ở lòng chảo Điện Biên, những chiếc xe 
tăng người Mỹ để lại trên đất Quảng Trị. 
(www.sudentkgu.vn) 
Rõ ràng, ở (90) không thể viết: “... những chiếc 
người Mỹ để lại trên đất Quảng Trị”. 
2.2.3. Danh từ đơn vị cũng có thể sử dụng riêng 
lẻ, nhưng khác với những trường hợp khác ở chỗ nó 
hoàn toàn không chấp nhận sự có mặt của danh từ 
khối, và có thể cũng không cần bất kỳ định ngữ nào 
khác. Về mặt ngữ nghĩa, có mối quan hệ tổng thể - 
bộ phận giữa danh ngữ có chứa danh từ khối ở phần 
đầu của câu (hoặc ở câu trước) và các danh ngữ chỉ 
gồm danh từ đơn vị ở phần sau của câu (hoặc ở câu 
sau). 
2.2.3.1. Đây là trường hợp mà trong cấu trúc 
câu, danh ngữ biểu thị tổng thể (thường do danh từ 
khối đảm nhiệm) đã xuất hiện ở phần đề (có thể là 
đề, có thể là bổ ngữ thuộc phần đề), và ở phần 
thuyết các danh từ đơn vị làm thành những cặp 
tương phản hoặc song hành. (Nói một cách đơn 
giản, đây là trường hợp danh từ đơn vị tự mình lập 
thành danh ngữ.) 
Có thể thể hiện bằng mô hình: [Đề, Dtđv thì..., 
Dtđv thì...] hoặc [Đề, có Dtđv..., có Dtđv...], trong 
đó danh từ đơn vị biểu thị từng bộ phận (cá thể hoặc 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 66 
tập hợp) trong cái tổng thể đã được nhắc đến ở phần 
đề (hoặc ở câu trước). 
(91)Bạn bè tôi, người thì thành đạt, người thì 
không thành đạt, nhưng tất cả đều có vẻ hài lòng về 
cuộc sống của mình. 
(92) Bạn bè tôi, có người thành đạt, có người 
không thành đạt, nhưng tất cả đều có vẻ hài lòng về 
cuộc sống của mình. 
(93) Nó lựa mấy con cá to nhất để lại: con thì nó 
nướng, con thì nó chưng tương, con thì nó luộc 
hèm. 
(94) Sách vở của tôi, chỉ vài cuốn được bọc 
bằng plastic, những cuốn còn lại thì chỉ được bọc 
bằng giấy báo. 
Ở ví dụ (94), “cuốn” có định ngữ đi kèm (“vài”, 
“những”, “còn lại”), nhưng không phải là yếu tố bắt 
buộc; nếu không có các định ngữ này thì câu vẫn 
hợp ngữ pháp, có điều là câu có thêm ý nghĩa phân 
phối đều đặn giữa các tiểu đề (“... cuốn được bọc 
bằng plastic, cuốn chỉ được bọc bằng giấy báo”). 
Cần chú ý là trong kiểu cấu trúc phân phối như 
vừa đề cập, không thể có mặt danh từ khối, kể cả 
khi có danh từ đơn vị; hay nói cách khác, ở đây 
hoàn toàn không có hiện tượng tỉnh lược danh từ 
khối. Chẳng hạn: 
(95) *Quần của tôi, quần thì dài, quần thì ngắn. 
(96) *Quần của tôi, cái quần thì dài, cái quần thì 
ngắn. 
Và hai danh từ đơn vị khác biệt, dù được xem là 
đồng nghĩa, cũng không thể thay thế cho nhau; 
không thể nói “..., cái thì đẹp, bức thì xấu”, “..., 
quyển thì dày, cuốn thì mỏng”. 
2.2.3.2. Danh từ đơn vị có thể được sử dụng 
không có danh từ khối đi kèm, nhưng nó không 
được đặt trong quan hệ tương phản hoặc song hành 
như trường hợp 2.2.3.1. Ở đây danh từ chỉ đơn vị 
cũng được dùng để chỉ một bộ phận của một tổng 
thể đã được đề cập trước đó, nhưng nó thường đi 
kèm với một định ngữ là lượng từ hoặc từ chỉ định, 
từ phiếm định. Cái tổng thể vừa nói được hiểu theo 
nghĩa rộng: có thể là một tập hợp (gồm nhiều cá 
thể) như các câu (97) (98), có thể là một chủng loại 
như các câu (99) (100) dưới đây: 
(97) Có 30 tấm thẻ đánh số từ 1 đến 30. Chọn 
ngẫu nhiên 10 tấm. 
(98) Trường này có 3 nhóm thể thao nhưng chỉ 
nhóm này là có hoạt động. 
(99) Lá trên cành từng chiếc cuốn bay xa. (Bài 
hát “Chiếc lá cuối cùng”) 
(100) Bình sứ đẹp quá! Hay là mình mua hai, ba 
cái làm quà? 
2.3. Trường hợp không sử dụng danh từ đơn 
vị 
2.3.1. Như đã thấy ở 2.1 và 2.2, danh từ đơn vị 
là yếu tố hết sức quan trọng trong khi xây dựng 
danh ngữ, nhưng nó sẽ không xuất hiện trước danh 
từ khối nếu người nói đề cập đến một chủng loại 
hoặc chất liệu chứ không phải một đối tượng được 
phân lập 
So sánh: 
(101) Tôi thích cam. 
(102) Tôi thích trái cam đó. 
“Cam” trong (101) chỉ một chủng loại, phân biệt 
với các chủng loại khác như xoài, măng cụt, chanh; 
còn “trái cam” trong (102) chỉ một cá thể riêng biệt, 
cụ thể. 
Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, cùng một tình 
huống, người nói có thể chọn lựa những cách tiếp 
cận khác nhau khi muốn nói đến những thực thể tồn 
tại khách quan. Chẳng hạn: 
(103) Bạn đưa cuốn tập của bạn đây, mình chép 
giùm cho. 
(104) Bạn đưa tập của bạn đây, mình chép giùm 
cho. 
“Tập” trong (104) được nói trong sự phân biệt 
với sách, sổ tay, giấy, chứ không phải là một quyển 
vở cụ thể nào; còn nếu muốn nói đến một quyển vở 
cụ thể thì phải dùng câu (103). Cả hai đều thích hợp 
với bối cảnh giao tiếp. 
Cần phải nói rằng, sự chọn lựa của người nói 
cũng tùy thuộc vào sự tương tác của các yếu tố khác 
trong câu, đặc biệt là vị từ. Xét đoạn trích sau đây 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 67 
từ truyện “Anh và em” của Nguyễn Nhật Ánh 
(chúng tôi trình bày lại để dễ theo dõi): 
(105) Nhỏ Diệp chìa thanh sô cô la mời bạn. 
(106) – Oanh ăn kẹo đi! Oanh ăn đi. Mình 
không thích sô cô la! 
(107) (– Không thích sao bạn mua?) – Kẹo này 
không phải mình mua. 
(108) (Thấy hai con nhóc đùn qua đùn lại, Quý 
ròm tức điên.) Hừ, tụi nó cứ làm như kẹo của mình 
là hàng ế không bằng. 
(109) Quý hậm hực thò tay giật phắt thanh kẹo 
trên bàn và quay lưng bỏ đi. 
Trong các câu trên, (105) (107) (108) có thể 
dùng “kẹo”, “sô cô la” hoặc “thanh kẹo”, “thanh sô 
cô la” mà không tổn hại gì đến tính ngữ pháp của 
câu; (106) khó có thể dùng “thanh kẹo”, “thanh sô 
cô la”. Riêng ở (109), “thanh kẹo” là khả năng duy 
nhất vì nó là bổ ngữ trực tiếp cho vị từ tác động 
“giật (phắt)” – người ta chỉ có thể “giật phắt” một 
vật cụ thể, riêng biệt chứ không thể “giật phắt” một 
chủng loại. 
2.3.2. Ngoài ra, trong tiếng Việt, có một vài lưu 
ý rất thực tế. Chẳng hạn, khi nói về một đối tượng 
trong quan hệ sở thuộc (và là yếu tố cấu thành) một 
đối tượng lớn hơn (gần giống với quan hệ bộ phận 
– toàn thể) thì không cần đến danh từ đơn vị 
Ví dụ: 
(110) Chiếc xe này bánh trước thì thủng, đèn 
chiếu hậu thì vỡ, làm sao đi được? 
(111) Cái ghế này gãy một chân rồi. 
Các danh từ thân tộc khi làm bổ ngữ để chỉ một 
người có quan hệ (“của”) với người được biểu thị 
bằng danh ngữ đứng làm đề thì không cần danh từ 
đơn vị (để xác định), vì người nghe sẽ nhận ra ngay 
lập tức mối quan hệ “ai là gì của ai”. Ví dụ: 
(112) Tôi về quê thăm bố/mẹ/chú/con/cháu. 
(113) Cô ấy khóc vì nhớ bố/mẹ/con/cháu. 
Các danh từ chỉ bộ phận thân thể thường cũng 
không cần danh từ đơn vị; nếu bộ phận thân thể đó 
thuộc về một đối tượng khác với đối tượng đứng 
làm đề thì cần thêm định ngữ. So sánh: 
(114) Chị Lan đau bụng nên về trước rồi. (bụng 
của chị ấy) 
(115) Tôi sờ trán thấy không sốt nên cũng yên 
tâm. (trán của tôi) 
(116) Tôi sờ trán nó thấy không sốt nên cũng 
yên tâm. (trán của nó) 
(117) Nhìn thấy chị má hóp, mắt trũng sâu, tôi 
rất ái ngại. 
(118) Bác sĩ nói gan anh có vấn đề, anh phải bỏ 
rượu. 
Cần chú ý rằng trường hợp này khác với cách 
nói mà Hồ Lê [5: 14] cho là bắt buộc phải có danh 
từ đơn vị (“hai cái đầu”, “những cái đầu”). Về ngữ 
pháp, danh từ đơn vị cần có mặt khi “tính đếm”; tuy 
nhiên, trong tiếng Việt rất nhiều danh từ chỉ bộ 
phận trong cơ thể vừa có thể hoạt động như một 
danh từ khối, vừa có thể hoạt động như một danh từ 
đơn vị – nghĩa là có thể kết hợp trực tiếp với lượng 
từ (hai đầu gối, hai cổ tay, mấy ngón tay, hai tai, 
v.v.). 
Trong thực tế sử dụng ngôn ngữ, “cái” có thể 
xuất hiện trước danh từ chỉ bộ phận cơ thể ở những 
cách nói kiểu như “Trông cái mặt anh ta kìa!”, 
“Ngậm cái mồm lại!”, “Hai con mắt cô ta lúng liếng 
trông khiếp thật!”, “Hiểu... hiểu... cái đầu mày!”. 
Nhưng “cái” ở đây nên được hiểu là một quán từ 
xác định – tương tự như “cái” trong “cái người đàn 
ông kia”, “cái điều anh vừa nói” – chứ không phải 
là “cái” danh từ đơn vị. 
3. Kết luận 
Như đã nói trên, danh từ nói chung và danh từ 
đơn vị nói riêng hoàn toàn không phải là vấn đề mới 
của Việt ngữ học. Nó đã được nghiên cứu, khảo sát 
kỹ lưỡng hơn nửa thế kỷ nay; và, về chi tiết, dù các 
tác giả không đồng thuận với nhau thì kết quả 
nghiên cứu của họ cũng góp phần làm sáng rõ vấn 
đề đang bàn. Tuy nhiên, những gì mà những người 
đi trước đã lập thức chưa đủ để ứng dụng vào việc 
dạy tiếng. 
Mục đích của bài viết này là cố gắng hệ thống 
hóa các cách sử dụng danh từ đơn vị cho người học 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X2-2015 
Trang 68 
tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai. Trong đó, 
chúng tôi cũng cố gắng lý giải một số trường hợp sử 
dụng hoặc không sử dụng danh từ đơn vị có thể gây 
lúng túng cho người học. Thiết nghĩ, danh từ và 
hoạt động của từng tiểu loại danh từ trong cấu trúc 
ngữ đoạn, cấu trúc câu vẫn còn là một vấn đề cần 
tiếp tục làm rõ (và diễn giải đơn giản hơn) trong 
tương lai, theo định hướng thực hành. 
How to use Vietnamese unit nouns 
- from the perspective of teaching languages 
 Le Thi Minh Hang 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
ABSTRACT: 
Vietnamese unit nouns (known as 
“count(able) nouns” or “classifiers”) were 
profoundly surveyed by a great number of 
linguists. However, foreigners learning 
Vietnamese have great trouble in dealing with 
this grammatical issue. In the paper, the author 
tries to formulate usages of Vietnamese unit 
nouns in order to facilitate foreigners’ learning. 
Besides, the author also focuses on the 
interpretation of the cases where unit noun’s 
presence is optional. 
Keywords: classifiers, unit noun, count(able) noun, mass noun 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Bùi Mạnh Hùng (2000), Vấn đề quán từ và 
nhận diện quán từ trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, 
số 12, Hà Nội. 
[2]. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt - mấy vấn 
đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb. Giáo 
Dục. 
[3]. Cao Xuân Hạo (1999), Nghĩa của loại từ, 
Ngôn ngữ, số 2&3, Hà Nội. 
[4]. Cao Xuân Hạo (CB) (2006), Ngữ pháp chức 
năng tiếng Việt: Ngữ đoạn và Từ loại, Nxb. 
Giáo Dục. 
[5]. Hồ Lê (2003), Ngữ pháp ngữ nghĩa của loại 
từ, Ngôn ngữ, số 11, Hà Nội. 
[6]. Lưu Vân Lăng (1997), Một số vấn đề về loại 
từ trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 2, Hà Nội. 
[7]. Lý Toàn Thắng (1997), Loại từ và các tiểu loại 
danh từ trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 2, Hà 
Nội. 
[8]. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Từ loại danh từ trong 
tiếng Việt hiện đại, Nxb. KHXH. 
[9]. Nguyễn Tài Cẩn (1977), Ngữ pháp tiếng Việt - 
Tiếng, Từ ghép, Đoản ngữ, Nxb ĐH&THCN, 
Hà Nội. 
[10]. Nguyễn Thị Hai (2006), Về việc dạy danh từ 
chỉ đơn vị tự nhiên tiếng Việt cho học viên, 
sinh viên nước ngoài, Tạp chí Khoa học, Đại 
học Sư phạm Tp.HCM. 
[11]. Nguyễn Thiện Nam (2007), Lỗi loại từ trong 
tiếng Việt của người nước ngoài, 
www.ngonngu.net. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X2-2015 
 Trang 69 
[12]. Trần Đại Nghĩa (1988), Một cách xác định 
loại từ trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 4, Hà 
Nội. 
[13]. Trần Đại Nghĩa (1988), Phân loại các tổ hợp 
loại từ - danh từ trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, số 
5, Hà Nội. 
[14]. Vũ Đức Nghiệu (2001), Ngữ pháp ngữ nghĩa 
của hai kiểu danh ngữ “hạt dưa”, “một hạt 
dưa”, Ngôn ngữ, số 11, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfcach_su_dung_danh_tu_don_vi_tieng_viet_duoi_goc_do_day_tieng.pdf