Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB

Báo cáo tài chính được xem là nguồn cung cấp thông tin về tình hình

tài chính và kinh doanh quan trọng cho nhà quản lý doanh nghiệp, nhà

đầu tư, và các đối tượng quan tâm khác. Tuy nhiên, trong những năm

gần đây, hiện tượng gian lận trong trình bày thông tin trên báo cáo tài

chính của các công ty niêm yết xảy ra ngày càng nhiều dẫn tới sự thiếu

tin tưởng của những người sử dụng báo cáo tài chính để ra quyết định

kinh doanh. Do vậy, việc xác định các tiêu chuẩn để đo lường chất

lượng báo cáo tài chính theo chuẩn quốc tế cần được chú trọng hơn,

nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang có lộ trình bắt buộc áp dụng

Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế - IFRS sau năm 2025. Bài báo

này trình bày các tiêu chuẩn đo lường là cơ sở khách quan trong việc

đánh giá chất lượng báo cáo tài chính tin cậy và trung thực dựa theo

quy định của IASB (Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế)

Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB trang 1

Trang 1

Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB trang 2

Trang 2

Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB trang 3

Trang 3

Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB trang 4

Trang 4

Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB trang 5

Trang 5

Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB trang 6

Trang 6

Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB trang 7

Trang 7

Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB trang 8

Trang 8

Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB trang 9

Trang 9

pdf 9 trang baonam 7060
Bạn đang xem tài liệu "Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB

Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB
TNU Journal of Science and Technology 226(08): 180 - 188 
 180 Email: jst@tnu.edu.vn 
STANDARDS FOR MEASURING THE FINANCIAL STATEMENT QUALITY 
BASED ON IASB’S REGULATION 
Do Thi Hai Yen
*
University of Transport and Communications 
ARTICLE INFO ABSTRACT 
Received: 20/4/2021 Financial statements are considered an important source of financial 
and business information for business managers, investors, and other 
interested parties. However, in recent years, fraudulent presentation of 
information on financial statements of listed companies has occurred, 
leading to a lack of trust from people who use financial statements for 
business decision-making. Therefore, the determination of the standards 
to measure financial statements quality according to international 
standards needs more attention, especially in the context that Vietnam 
is on a mandatory roadmap for the application of the International 
Financial Reporting Standards - IFRS after 2025. This paper presents 
the standards that are an objective foundation for evaluating the quality 
of financial statements reliable and faithful according to the regulation 
of the IASB (International Accounting Standards Board). 
Revised: 20/5/2021 
Published: 24/5/2021 
KEYWORDS 
Standards 
Measure 
Financial statements 
Quality 
IASB 
CÁC TIÊU CHUẨN ĐO LƯỜNG CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH 
DỰA THEO QUY ĐỊNH CỦA IASB 
Đỗ Thị Hải Yến 
Trường Đại học Giao thông vận tải 
THÔNG TIN BÀI BÁO TÓM TẮT 
Ngày nhận bài: 20/4/2021 Báo cáo tài chính được xem là nguồn cung cấp thông tin về tình hình 
tài chính và kinh doanh quan trọng cho nhà quản lý doanh nghiệp, nhà 
đầu tư, và các đối tượng quan tâm khác. Tuy nhiên, trong những năm 
gần đây, hiện tượng gian lận trong trình bày thông tin trên báo cáo tài 
chính của các công ty niêm yết xảy ra ngày càng nhiều dẫn tới sự thiếu 
tin tưởng của những người sử dụng báo cáo tài chính để ra quyết định 
kinh doanh. Do vậy, việc xác định các tiêu chuẩn để đo lường chất 
lượng báo cáo tài chính theo chuẩn quốc tế cần được chú trọng hơn, 
nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang có lộ trình bắt buộc áp dụng 
Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế - IFRS sau năm 2025. Bài báo 
này trình bày các tiêu chuẩn đo lường là cơ sở khách quan trong việc 
đánh giá chất lượng báo cáo tài chính tin cậy và trung thực dựa theo 
quy định của IASB (Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế). 
Ngày hoàn thiện: 20/5/2021 
Ngày đăng: 24/5/2021 
TỪ KHÓA 
Tiêu chuẩn 
Đo lường 
Báo cáo tài chính 
Chất lượng 
IASB 
DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.4404 
Email: yendth_ph@utc.edu.vn 
TNU Journal of Science and Technology 226(08): 180 - 188 
 181 Email: jst@tnu.edu.vn 
1. Đặt vấn đề 
Báo cáo tài chính (BCTC) được hiểu là một hệ thống các báo cáo chứa các thông tin kinh tế, 
tài chính của các doanh nghiệp, các báo cáo này được trình bày đúng theo các quy định có liên 
quan của chế độ kế toán và chuẩn mực kế toán. BCTC cung cấp các thông tin của doanh nghiệp 
như: tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí, việc phân chia kết quả kinh doanh 
Những thông tin này nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý của chủ doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, 
đồng thời là cơ sở cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp (nhà đầu tư, nhà cung cấp, khách 
hàng) đưa ra các quyết định kinh tế. 
Theo Hội đồng tiêu chuẩn kế toán tài chính (Financial Accounting Standards Board - FASB) 
và Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (International Accounting Standards Board - IASB), mục 
đích chính của báo cáo tài chính là cung cấp các thông tin tài chính có chất lượng cho các thực 
thể kinh tế [1], [2]. Việc cung cấp thông tin tài chính có chất lượng cao vô cùng quan trọng vì nó 
sẽ ảnh hưởng tích cực đến các nhà cung cấp vốn và các bên liên quan khác như các nhà đầu tư, tổ 
chức tín dụng Mặc dù vậy, việc đo lường chất lượng của BCTC như thế nào cho phù hợp vẫn 
luôn là vấn đề quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Đánh giá chất lượng BCTC 
cần phải dựa vào rất nhiều các tiêu chuẩn khác nhau [3], [4]. Hơn thế nữa, tuỳ vào từng bối cảnh, 
những nhóm người dùng với trình độ không giống nhau sẽ có nhận thức khác nhau về chất lượng 
thông tin trên BCTC [5]. Do vậy, việc thống nhất các tiêu chuẩn chung làm căn cứ để đo lường 
chất lượng BCTC cho tất cả các doanh nghiệp là vô cùng cần thiết. Theo Botosan, việc đo lường 
trực tiếp chất lượng BCTC sẽ gặp rất nhiều vấn đề [6]. Do vậy, nhiều nhà nghiên cứu tiến hành 
đo lường chất lượng BCTC gián tiếp thông qua các thuộc tính như quản trị lợi nhuận, tính kịp 
thời hay cơ cấu tài chính [3], [7], [8] nhưng không có tài liệu nào đánh giá toàn diện được chất 
lượng BCTC với đầy đủ đặc điểm định tính như trong dự thảo của IASB về “Khung lý thuyết 
hoàn thiện cho BCTC” (An improved Conceptual Framework for Financial Reporting). 
Tại Việt Nam, nghiên cứu “Xác định và kiểm soát các nhân tố ảnh hưởng chất lượng thông tin 
kế toán trong môi trường ứng dụng hệ thống hoạch định nguồn nhâ ... ng tiết lộ 
2 = Tiết lộ hạn chế 
3 = Tiết lộ đầy đủ 
4 = Tiết lộ rất nhiều 
5 = Tiết lộ rất rộng rãi 
[8], [34]-[38] 
 F7 Báo cáo thường niên 
trình bày thông tin liên 
quan đến tiền thưởng 
của hội đồng quản trị ở 
mức độ nào? 
1 = Không có thông tin liên quan đến tiền thưởng 
2 = Thông tin hạn chế liên quan đến tiền thưởng 
3 = Có đủ thông tin liên quan đến tiền thưởng 
4 = Rất nhiều thông tin liên quan đến 
5 = Thông tin liên quan đến tiền thưởng rất phong phú 
[28], [39] 
Dễ hiểu (Understandability) 
Chỉ tiêu Câu hỏi Đo lường 
Nghiên cứu 
liên quan 
U1 
Báo cáo thường niên 
được trình bày một 
cách có tổ chức ở mức 
độ nào? 
1 = Bản trình bày rất tệ 
2 = Bản trình bày tệ 
3 = Trình bày kém 
4 = Trình bày tốt 
5 = Trình bày rất tốt 
[20] 
U2 
Các bảng biểu và đồ 
thị làm rõ thông tin ở 
mức độ nào? 
1 = Không có đồ thị 
2 = 1‐5 đồ thị 
3 = 6‐10 đồ thị 
4 = 11‐15 đồ thị 
5 = > 15 đồ thị 
[20], [40] 
U3 
Báo cáo thường niên 
chứa những thuật ngữ 
chuyên môn ở mức độ 
nào (theo nhận thức 
của nhà nghiên cứu)? 
1 = Rất nhiều thuật ngữ 
2 = Nhiều thuật ngữ 
3 = Sử dụng thuật ngữ vừa phải 
4 = Hạn chế sử dụng thuật ngữ 
5 = Không/ hầu như không có bất kỳ thuật ngữ nào 
[20], [40], [41] 
U4 
Kích thước của bảng 
chú giải là bao nhiêu? 
1 = Không có bảng chú giải thuật ngữ 
2 = Ít hơn 1 trang 
3 = Khoảng 1 trang 
4 = 1‐2 trang 
5 = > 2 trang 
[20] 
U5 
Báo cáo hàng năm chứa 
thông tin liên quan đến 
sứ mệnh và chiến lược 
ở mức độ nào? 
1 = Không có thông tin liên quan đến sứ mệnh và chiến lược 
2 = Thông tin hạn chế liên quan đến nhiệm vụ và chiến lược 
3 = Có đủ thông tin liên quan đến sứ mệnh và chiến lược 
4 = Rất nhiều thông tin liên quan đến sứ mệnh và chiến lược 
5 = Thông tin rất phong phú liên quan đến sứ mệnh và chiến lược 
[42], [43] 
U6 
Báo cáo thường niên có 
thể hiểu được theo nhận 
thức của nhà nghiên 
cứu ở mức độ nào? 
1 = Rất khó hiểu 
2 = Khó hiểu 
3 = Có thể hiểu được ít 
4 = Dễ hiểu 
5 = Rất dễ hiểu 
[44] 
Có thể so sánh được (Comparability) 
Chỉ tiêu Câu hỏi Đo lường 
Nghiên cứu 
liên quan 
C1 
Những chính sách kế 
toán thay đổi được công 
khai ở mức độ nào? 
1 = Không công khai 
2 = Công khai hạn chế 
3 = Công khai đầy đủ 
4 = Công khai rất nhiều 
5 = Công khai rất rộng rãi 
[20] 
TNU Journal of Science and Technology 226(08): 180 - 188 
 186 Email: jst@tnu.edu.vn 
C2 
Những thay đổi trong 
ước tính kế toán được 
công khai ở mức độ nào? 
1 = Không công khai 
2 = Công khai hạn chế 
3 = Công khai đầy đủ 
4 = Công khai rất nhiều 
5 = Công khai rất rộng rãi 
[3], [20] 
C3 
Báo cáo thường niên 
chứa thông tin liên quan 
đến việc so sánh và ảnh 
hưởng của những thay 
đổi chính sách kế toán ở 
mức độ nào? 
1 = Không so sánh 
2 = Điều chỉnh thực tế (1 năm) 
3 = 2 năm 
4 = 3 năm 
5 = 4 năm trở lên 
[20], [45], [46] 
C4 
Công ty trình bày các 
chỉ số tài chính trong 
báo cáo thường niên ở 
mức độ nào? 
1 = Không có tỷ lệ 
2 = 1‐5 tỷ lệ 
3 = 6‐10 tỷ lệ 
4 = 11‐15 tỷ lệ 
5 = > 15 tỷ lệ 
[47] 
C5 
Báo cáo thường niên 
chứa thông tin liên 
quan đến cổ phiếu của 
công ty ở mức độ nào? 
1 = Không có thông tin liên quan cổ phiếu của công ty 
2 = Thông tin hạn chế liên quan đến cổ phiếu của công ty 
3 = Có đủ thông tin liên quan đến cổ phiếu của các công ty 
4 = Rất nhiều thông tin liên quan đến cổ phiếu của công ty 
5 = Thông tin rất phong phú 
[20], [48] 
C6 
Báo cáo hàng năm chứa 
thông tin liên quan đến 
các đối thủ cạnh tranh ở 
mức độ nào? 
1 = Không có thông tin 
2 = Thông tin hạn chế 
3 = Đủ thông tin 
4 = Rất nhiều thông tin 
5 = Thông tin rất phong phú 
[18], [49], [50] 
Tính kịp thời (Timeliness) 
Chỉ tiêu Câu hỏi Đo lường 
Nghiên cứu 
liên quan 
T1 
Mất bao nhiêu ngày để 
kiểm toán viên ký báo 
cáo của kiểm toán viên 
sau khi kết thúc năm 
ghi sổ? 
Lôgarit tự nhiên của số ngày 
1 = 1‐1,99 
2 = 2‐2,99 
3 = 3‐3,99 
4 = 4‐4,99 
5 = 5‐5,99 
[2], [51] 
 Nguồn: Braam và Beest, 2013 [15] 
3. Kết luận 
Nghiên cứu này đã trình bày các tiêu chuẩn để đo lường chất lượng BCTC theo đề xuất của 
Braam và Beest dựa theo tiêu chí đánh giá về chất lượng thông tin trên BCTC của IASB. Các tiêu 
chuẩn này được cụ thể hoá thành những thang đo với những câu hỏi và cách đánh giá chi tiết bởi 
Braam và Beest [15]. Những tiêu chuẩn này là cơ sở cho các doanh nghiệp và các nghiên cứu 
trong tương lai dễ dàng hơn trong việc tiếp cận và đánh giá chất lượng BCTC theo chuẩn chung 
của quốc tế. 
Mặc dù việc đánh giá chất lượng báo cáo tài chính theo các tiêu chuẩn của IASB là rất khắt 
khe, nhất là trong bối cảnh Việt Nam vẫn đang sử dụng chuẩn mực kế toán riêng VAS. Tuy 
nhiên, với lộ trình áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế ở Việt Nam trong tương lai gần, việc 
chuẩn bị những tiêu chuẩn cho việc đánh giá và nâng cao chất lượng báo cáo tài chính theo 
những tiêu chuẩn trên là vô cùng cần thiết. Điều này giúp cho báo cáo tài chính của các doanh 
nghiệp Việt Nam minh bạch và trung thực hơn, tạo được sự tin tưởng từ những người quan tâm 
và nâng cao thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. 
TNU Journal of Science and Technology 226(08): 180 - 188 
 187 Email: jst@tnu.edu.vn 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES 
[1] Financial Accounting Standards Board [FASB], International standard setting: a vision for the future, 
Norwalk, 1999. 
[2] International Accounting Standards Board [IASB], Exposure draft on an improved conceptual 
framework for financial reporting: The objective of financial reporting and qualitative characteristics 
of decision-useful financial reporting information, London, 2008. 
[3] K. Schipper and L. Vincent, “Earnings Quality,” Accounting Horizons, no. 17, pp. 97-110, 2003. 
[4] H. Daske and G. Gebhardt, “International Financial Reporting Standards and Experts’ Perceptions of 
Disclosure Quality,” Abacus, no. 42(3-4), pp. 461-498, 2006. 
[5] F. V. Beest, G. Braam, and S. Boelens, “Quality of Financial Reporting: measuring qualitative 
characteristics,” NiCE Working Paper, no. 09-108, 2009. 
[6] C. Botosan, “Discussion of a framework for the analysis of risk communication,” The International 
Journal of Accounting, no. 39, pp. 289-295, 2004. 
[7] M. Barth, W. Landsman, and M. Lang, “International Accounting Standards and Accounting Quality,” 
Journal of Accounting Research, no. 46(3), pp. 467-498, 2008. 
[8] J. Cohen, G. Krishnamorthy, and A. Wright, “The corporate governance mosaic and financial reporting 
quality,” Journal of Accounting Literature, no. 23, pp. 87-152, 2004. 
[9] B. L. Nguyen, “Identify and control factors affecting the quality of accounting information in the 
environment of enterprise human resource planning (ERP) application in Vietnamese enterprises,” (in 
Vietnamese), Ph.D thesis, University of Economics Ho Chi Minh City, 2012. 
[10] V. N. Vo and T. T. H. Tran, “Some comments on the quality of financial statements of small and 
medium enterprises in Vietnam,” (in Vietnamese), Journal of Economics and Technology - Binh 
Duong Economics and Technology University, no. 02, pp. 3-14, 2013. 
[11] R. R. Nelson, P. A. Todd, and B. H. Wixom, “Antecedents of Information and System Quality: An 
Empirical Examination Within the Context of Data Warehousing,” Journal of Management 
Information Systems, vol. 21, no. 4, pp. 199-235, 2005. 
[12] W. DeLone and E. R. McLean, “The DeLone and McLean model of information systems success: A 
ten-year update,” Journal of Management Information Systems, no. 19(4), pp. 9-30, 2003. 
[13] P. Baltzan, Business driven information systems 3rd ed, New York: McGraw-Hill, 2012. 
[14] D. A. M. Kallob, Using the Information Qualitative Characteristics in Measuring the Quality of 
Financial Reporting of the Palestinian Banking Sector, Islamic University of Gaza High Studies 
Deanery Faculty of Commerce Accounting and finance, 2013. 
[15] G. Braam and F. V. Beest, “Conceptually-Based Financial Reporting Quality Assessment. An 
Empirical Analysis on Quality Differences Between UK Annual Reports and US 10-K Reports,” NiCE 
Working paper, no. 13-106, 2013. 
[16] International Accounting Standards Board [IASB], The conceptual framework for financial reporting, 2010. 
[17] L. McDaniel, R. Martin, and L. Maines, “Evaluating financial reporting quality: The effects of 
financial expertise vs. financial literacy,” The Accounting Review, no. 77, pp. 139-167, 2002. 
[18] M. Barth, W. Beaver, and W. Landsman, “The relevance of the value relevance literature for financial 
accounting standard setting: Another view,” Journal of Accounting and Economics, no. 31(1-3), pp. 77-104, 2001. 
[19] K. Schipper, “Commentary: Principles-based accounting standards,” Accounting Horizons, no. 17(1), 
pp. 61-72, 2003. 
[20] G. Jonas and J. Blanchet, “Assessing quality of financial reporting,” Accounting Horizons, no. 14(3), 
pp. 353-363, 2000. 
[21] D. Nichols and J. Wahlen, “How do earnings numbers relate to stock returns? A review of classic 
accounting research with updated evidence,” Accounting Horizons, no. 18(4), pp. 263-286, 2004. 
[22] E. Bartov and P. Mohanram, “Private information, earnings manipulations, and executive stock-option 
exercises,” The Accounting Review, no. 79(4), pp. 889-1010, 2004. 
[23] C. Deegan, “The legitimizing effect of social and environmental disclosures? A theoretical 
foundation,” Accounting, Auditing, and Accountability Journal, no. 15(3), pp. 282-311, 2002. 
[24] R. P. Orij, “Corporate social disclosures in the context of national cultures and stakeholder theory,” 
Accounting, Auditing, and Accountability Journal, no. 23(7), pp. 868-889, 2010. 
[25] M. Hoogendoorn and G. Mertens, “Kwaliteit van de financiële verslaggeving in Nederland,” 
Maandblad Accountancy, no. 10, pp. 406-420, 2001. 
[26] L. Maines and J. Wahlen, “The nature of accounting information reliability: Inferences from archival 
and experimental research,” Accounting Horizons, no. 20(4), pp. 399-425, 2006. 
TNU Journal of Science and Technology 226(08): 180 - 188 
 188 Email: jst@tnu.edu.vn 
[27] S. Van der Meulen, A. Gaeremynck, and M. Willekens, “Attribute differences between US GAAP and 
IFRS earnings: An exploratory study,” The International Journal of Accounting, no. 42(2), pp. 123-142, 2007. 
[28] K. Camfferman and T. E. Cooke, “An analysis of disclosure in the annual reports of U.K and Dutch 
companies,” Journal of International Accounting Research, no. 1(1), pp. 3-30, 2002. 
[29] H. Vander Bauwhede, What factors influence financial statement quality? A framework and some 
empirical evidence, Working Paper, 2001. 
[30] T. Gafarov, “Financial reporting quality control for internal control implementation,” Ph.D. thesis, 
Faculty of Business and Management, Brno University of Technology, pp. 148, 2009. 
[31] A. Gaeremynck and M. Willekens, “The endogenous relationship between auditreport type and 
business termination: Evidence on private firms in a non-litigious environment,” Accounting and 
Business Research, no. 33(1), pp. 65-79, 2003. 
[32] J. Kim, D. Simunic, M. Stein, and C. H. Yi, “Voluntary audits and the cost of debt capital for privately 
held firms: Korean evidence,” Contemporary Accounting Research, no. 28(2), pp. 585-615, 2011. 
[33] G. L. Gray, J. L. Turner, P. J. Coram, and T. J. Mock, “Perceptions and misperceptions regarding the 
unqualified auditor’s report by financial statement preparers, users, and auditors,” Accounting 
Horizons, no. 25(4), pp. 659-684, 2011. 
[34] P. Dechow and I. Dichev, “The quality of accruals and earnings: The role of accrual estimation 
errors,” The Accounting Review, no. 77, pp. 35-59, 2002. 
[35] D. McMullen, “Audit committee performance: An investigation of the consequences associated with 
audit committees,” Auditing: A Journal of Practice and Theory, no. 15(1), pp. 87-103, 1996. 
[36] M. Beasley, “An empirical analysis of the relation between board of director compensation and 
financial statement fraud,” The Accounting Review, no. 71(4), pp. 443-466, 1996. 
[37] Z. Rezaee, “High-quality financial reporting: The six-legged stool,” Strategic Finance, no. 84(8), pp. 
26-30, 2003. 
[38] R. Sloan, “Financial accounting and corporate governance: A discussion,” Journal of Accounting and 
Economics, no. 32(1-3), pp. 335-347, 2001. 
[39] D. Burgstahler, L. Hail, and C. Leuz, “The importance of reporting incentives: Earnings management 
in European private and public firms,” The Accounting Review, no. 81(5), pp. 983-1016, 2006. 
[40] International Accounting Standards Board [IASB], Preliminary views on an improved conceptual 
framework for financial reporting: The objective of financial reporting and qualitative characteristics 
of decision-useful financial reporting information, London, 2006. 
[41] J. Iu and C. Clowes, Evaluating a measure of content quality for accounting narratives (with an empirical 
application to narratives from Australia, Hong Kong, and the United States), Working Paper Series, 2004. 
[42] Financial Accounting Standards Board [FASB], Conceptual framework for financial reporting 
(Chapter 3: Qualitative characteristics of useful financial information), Statement of Financial 
Accounting Concepts No. 8, Norwalk, CT, 2010. 
[43] R. Men and H. Wang, Analysis on the quality of strategic information disclosure in listed steel 
companies? Based on annual report, Paper presented at the Orient Academic Forum, 2008. 
[44] J. Courtis, “Readability of annual reports: Western versus Asian evidence,” Accounting, Auditing, and 
Accountability Journal, no. 8(2), pp. 4-17, 2005. 
[45] V. Cole, J. Branson, and D. Breesch, “How to measure the comparability of financial statements?” 
International Journal of Managerial and Financial Accounting, no. 1(4), pp. 379-397, 2009. 
[46] V. Cole, J. Branson, and D. Breesch, “The uniformity-flexibility dilemma when comparing financial 
statements: Views of auditors, analysts, and other users,” International Journal of Accounting and 
Information Management, no. 20(2), pp. 114-141, 2012. 
[47] S. Cleary, “The relationship between firm investment and financial status,” Journal of Finance, no. 
54(2), pp. 673-692, 1999. 
[48] A. M. Lantto and P. Sahlström, “Impact of international financial reporting standard adoption on key 
financial ratios,” Accounting and Finance, no. 49(2), pp. 341-361, 2009. 
[49] G. De Franco, S. P. Kothari, and R. Verdi, “The benefits of financial statement comparability,” 
Journal of Accounting Research, no. 49(4), pp. 895-931, 2011. 
[50] C. Armstrong, M. E. Barth, A. Jagolinzer, and E. J. Riedl, “Market reaction to the adoption of IFRS in 
Europe,” The Accounting Review, no. 85(1), pp. 31-61, 2010. 
[51] S. Leventis and P. Weetman, “Timeliness of financial reporting: Applicability of disclosure theories in 
an emerging capital market,” Accounting and Business Research, no. 34(1), pp. 43-56, 2004. 

File đính kèm:

  • pdfcac_tieu_chuan_do_luong_chat_luong_bao_cao_tai_chinh_dua_the.pdf