Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB
Báo cáo tài chính được xem là nguồn cung cấp thông tin về tình hình
tài chính và kinh doanh quan trọng cho nhà quản lý doanh nghiệp, nhà
đầu tư, và các đối tượng quan tâm khác. Tuy nhiên, trong những năm
gần đây, hiện tượng gian lận trong trình bày thông tin trên báo cáo tài
chính của các công ty niêm yết xảy ra ngày càng nhiều dẫn tới sự thiếu
tin tưởng của những người sử dụng báo cáo tài chính để ra quyết định
kinh doanh. Do vậy, việc xác định các tiêu chuẩn để đo lường chất
lượng báo cáo tài chính theo chuẩn quốc tế cần được chú trọng hơn,
nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang có lộ trình bắt buộc áp dụng
Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế - IFRS sau năm 2025. Bài báo
này trình bày các tiêu chuẩn đo lường là cơ sở khách quan trong việc
đánh giá chất lượng báo cáo tài chính tin cậy và trung thực dựa theo
quy định của IASB (Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế)
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các tiêu chuẩn đo lường chất lượng báo cáo tài chính dựa theo quy định của IASB
TNU Journal of Science and Technology 226(08): 180 - 188 180 Email: jst@tnu.edu.vn STANDARDS FOR MEASURING THE FINANCIAL STATEMENT QUALITY BASED ON IASB’S REGULATION Do Thi Hai Yen * University of Transport and Communications ARTICLE INFO ABSTRACT Received: 20/4/2021 Financial statements are considered an important source of financial and business information for business managers, investors, and other interested parties. However, in recent years, fraudulent presentation of information on financial statements of listed companies has occurred, leading to a lack of trust from people who use financial statements for business decision-making. Therefore, the determination of the standards to measure financial statements quality according to international standards needs more attention, especially in the context that Vietnam is on a mandatory roadmap for the application of the International Financial Reporting Standards - IFRS after 2025. This paper presents the standards that are an objective foundation for evaluating the quality of financial statements reliable and faithful according to the regulation of the IASB (International Accounting Standards Board). Revised: 20/5/2021 Published: 24/5/2021 KEYWORDS Standards Measure Financial statements Quality IASB CÁC TIÊU CHUẨN ĐO LƯỜNG CHẤT LƯỢNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH DỰA THEO QUY ĐỊNH CỦA IASB Đỗ Thị Hải Yến Trường Đại học Giao thông vận tải THÔNG TIN BÀI BÁO TÓM TẮT Ngày nhận bài: 20/4/2021 Báo cáo tài chính được xem là nguồn cung cấp thông tin về tình hình tài chính và kinh doanh quan trọng cho nhà quản lý doanh nghiệp, nhà đầu tư, và các đối tượng quan tâm khác. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, hiện tượng gian lận trong trình bày thông tin trên báo cáo tài chính của các công ty niêm yết xảy ra ngày càng nhiều dẫn tới sự thiếu tin tưởng của những người sử dụng báo cáo tài chính để ra quyết định kinh doanh. Do vậy, việc xác định các tiêu chuẩn để đo lường chất lượng báo cáo tài chính theo chuẩn quốc tế cần được chú trọng hơn, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang có lộ trình bắt buộc áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế - IFRS sau năm 2025. Bài báo này trình bày các tiêu chuẩn đo lường là cơ sở khách quan trong việc đánh giá chất lượng báo cáo tài chính tin cậy và trung thực dựa theo quy định của IASB (Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế). Ngày hoàn thiện: 20/5/2021 Ngày đăng: 24/5/2021 TỪ KHÓA Tiêu chuẩn Đo lường Báo cáo tài chính Chất lượng IASB DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.4404 Email: yendth_ph@utc.edu.vn TNU Journal of Science and Technology 226(08): 180 - 188 181 Email: jst@tnu.edu.vn 1. Đặt vấn đề Báo cáo tài chính (BCTC) được hiểu là một hệ thống các báo cáo chứa các thông tin kinh tế, tài chính của các doanh nghiệp, các báo cáo này được trình bày đúng theo các quy định có liên quan của chế độ kế toán và chuẩn mực kế toán. BCTC cung cấp các thông tin của doanh nghiệp như: tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí, việc phân chia kết quả kinh doanh Những thông tin này nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý của chủ doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, đồng thời là cơ sở cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp (nhà đầu tư, nhà cung cấp, khách hàng) đưa ra các quyết định kinh tế. Theo Hội đồng tiêu chuẩn kế toán tài chính (Financial Accounting Standards Board - FASB) và Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (International Accounting Standards Board - IASB), mục đích chính của báo cáo tài chính là cung cấp các thông tin tài chính có chất lượng cho các thực thể kinh tế [1], [2]. Việc cung cấp thông tin tài chính có chất lượng cao vô cùng quan trọng vì nó sẽ ảnh hưởng tích cực đến các nhà cung cấp vốn và các bên liên quan khác như các nhà đầu tư, tổ chức tín dụng Mặc dù vậy, việc đo lường chất lượng của BCTC như thế nào cho phù hợp vẫn luôn là vấn đề quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Đánh giá chất lượng BCTC cần phải dựa vào rất nhiều các tiêu chuẩn khác nhau [3], [4]. Hơn thế nữa, tuỳ vào từng bối cảnh, những nhóm người dùng với trình độ không giống nhau sẽ có nhận thức khác nhau về chất lượng thông tin trên BCTC [5]. Do vậy, việc thống nhất các tiêu chuẩn chung làm căn cứ để đo lường chất lượng BCTC cho tất cả các doanh nghiệp là vô cùng cần thiết. Theo Botosan, việc đo lường trực tiếp chất lượng BCTC sẽ gặp rất nhiều vấn đề [6]. Do vậy, nhiều nhà nghiên cứu tiến hành đo lường chất lượng BCTC gián tiếp thông qua các thuộc tính như quản trị lợi nhuận, tính kịp thời hay cơ cấu tài chính [3], [7], [8] nhưng không có tài liệu nào đánh giá toàn diện được chất lượng BCTC với đầy đủ đặc điểm định tính như trong dự thảo của IASB về “Khung lý thuyết hoàn thiện cho BCTC” (An improved Conceptual Framework for Financial Reporting). Tại Việt Nam, nghiên cứu “Xác định và kiểm soát các nhân tố ảnh hưởng chất lượng thông tin kế toán trong môi trường ứng dụng hệ thống hoạch định nguồn nhâ ... ng tiết lộ 2 = Tiết lộ hạn chế 3 = Tiết lộ đầy đủ 4 = Tiết lộ rất nhiều 5 = Tiết lộ rất rộng rãi [8], [34]-[38] F7 Báo cáo thường niên trình bày thông tin liên quan đến tiền thưởng của hội đồng quản trị ở mức độ nào? 1 = Không có thông tin liên quan đến tiền thưởng 2 = Thông tin hạn chế liên quan đến tiền thưởng 3 = Có đủ thông tin liên quan đến tiền thưởng 4 = Rất nhiều thông tin liên quan đến 5 = Thông tin liên quan đến tiền thưởng rất phong phú [28], [39] Dễ hiểu (Understandability) Chỉ tiêu Câu hỏi Đo lường Nghiên cứu liên quan U1 Báo cáo thường niên được trình bày một cách có tổ chức ở mức độ nào? 1 = Bản trình bày rất tệ 2 = Bản trình bày tệ 3 = Trình bày kém 4 = Trình bày tốt 5 = Trình bày rất tốt [20] U2 Các bảng biểu và đồ thị làm rõ thông tin ở mức độ nào? 1 = Không có đồ thị 2 = 1‐5 đồ thị 3 = 6‐10 đồ thị 4 = 11‐15 đồ thị 5 = > 15 đồ thị [20], [40] U3 Báo cáo thường niên chứa những thuật ngữ chuyên môn ở mức độ nào (theo nhận thức của nhà nghiên cứu)? 1 = Rất nhiều thuật ngữ 2 = Nhiều thuật ngữ 3 = Sử dụng thuật ngữ vừa phải 4 = Hạn chế sử dụng thuật ngữ 5 = Không/ hầu như không có bất kỳ thuật ngữ nào [20], [40], [41] U4 Kích thước của bảng chú giải là bao nhiêu? 1 = Không có bảng chú giải thuật ngữ 2 = Ít hơn 1 trang 3 = Khoảng 1 trang 4 = 1‐2 trang 5 = > 2 trang [20] U5 Báo cáo hàng năm chứa thông tin liên quan đến sứ mệnh và chiến lược ở mức độ nào? 1 = Không có thông tin liên quan đến sứ mệnh và chiến lược 2 = Thông tin hạn chế liên quan đến nhiệm vụ và chiến lược 3 = Có đủ thông tin liên quan đến sứ mệnh và chiến lược 4 = Rất nhiều thông tin liên quan đến sứ mệnh và chiến lược 5 = Thông tin rất phong phú liên quan đến sứ mệnh và chiến lược [42], [43] U6 Báo cáo thường niên có thể hiểu được theo nhận thức của nhà nghiên cứu ở mức độ nào? 1 = Rất khó hiểu 2 = Khó hiểu 3 = Có thể hiểu được ít 4 = Dễ hiểu 5 = Rất dễ hiểu [44] Có thể so sánh được (Comparability) Chỉ tiêu Câu hỏi Đo lường Nghiên cứu liên quan C1 Những chính sách kế toán thay đổi được công khai ở mức độ nào? 1 = Không công khai 2 = Công khai hạn chế 3 = Công khai đầy đủ 4 = Công khai rất nhiều 5 = Công khai rất rộng rãi [20] TNU Journal of Science and Technology 226(08): 180 - 188 186 Email: jst@tnu.edu.vn C2 Những thay đổi trong ước tính kế toán được công khai ở mức độ nào? 1 = Không công khai 2 = Công khai hạn chế 3 = Công khai đầy đủ 4 = Công khai rất nhiều 5 = Công khai rất rộng rãi [3], [20] C3 Báo cáo thường niên chứa thông tin liên quan đến việc so sánh và ảnh hưởng của những thay đổi chính sách kế toán ở mức độ nào? 1 = Không so sánh 2 = Điều chỉnh thực tế (1 năm) 3 = 2 năm 4 = 3 năm 5 = 4 năm trở lên [20], [45], [46] C4 Công ty trình bày các chỉ số tài chính trong báo cáo thường niên ở mức độ nào? 1 = Không có tỷ lệ 2 = 1‐5 tỷ lệ 3 = 6‐10 tỷ lệ 4 = 11‐15 tỷ lệ 5 = > 15 tỷ lệ [47] C5 Báo cáo thường niên chứa thông tin liên quan đến cổ phiếu của công ty ở mức độ nào? 1 = Không có thông tin liên quan cổ phiếu của công ty 2 = Thông tin hạn chế liên quan đến cổ phiếu của công ty 3 = Có đủ thông tin liên quan đến cổ phiếu của các công ty 4 = Rất nhiều thông tin liên quan đến cổ phiếu của công ty 5 = Thông tin rất phong phú [20], [48] C6 Báo cáo hàng năm chứa thông tin liên quan đến các đối thủ cạnh tranh ở mức độ nào? 1 = Không có thông tin 2 = Thông tin hạn chế 3 = Đủ thông tin 4 = Rất nhiều thông tin 5 = Thông tin rất phong phú [18], [49], [50] Tính kịp thời (Timeliness) Chỉ tiêu Câu hỏi Đo lường Nghiên cứu liên quan T1 Mất bao nhiêu ngày để kiểm toán viên ký báo cáo của kiểm toán viên sau khi kết thúc năm ghi sổ? Lôgarit tự nhiên của số ngày 1 = 1‐1,99 2 = 2‐2,99 3 = 3‐3,99 4 = 4‐4,99 5 = 5‐5,99 [2], [51] Nguồn: Braam và Beest, 2013 [15] 3. Kết luận Nghiên cứu này đã trình bày các tiêu chuẩn để đo lường chất lượng BCTC theo đề xuất của Braam và Beest dựa theo tiêu chí đánh giá về chất lượng thông tin trên BCTC của IASB. Các tiêu chuẩn này được cụ thể hoá thành những thang đo với những câu hỏi và cách đánh giá chi tiết bởi Braam và Beest [15]. Những tiêu chuẩn này là cơ sở cho các doanh nghiệp và các nghiên cứu trong tương lai dễ dàng hơn trong việc tiếp cận và đánh giá chất lượng BCTC theo chuẩn chung của quốc tế. Mặc dù việc đánh giá chất lượng báo cáo tài chính theo các tiêu chuẩn của IASB là rất khắt khe, nhất là trong bối cảnh Việt Nam vẫn đang sử dụng chuẩn mực kế toán riêng VAS. Tuy nhiên, với lộ trình áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế ở Việt Nam trong tương lai gần, việc chuẩn bị những tiêu chuẩn cho việc đánh giá và nâng cao chất lượng báo cáo tài chính theo những tiêu chuẩn trên là vô cùng cần thiết. Điều này giúp cho báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam minh bạch và trung thực hơn, tạo được sự tin tưởng từ những người quan tâm và nâng cao thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. TNU Journal of Science and Technology 226(08): 180 - 188 187 Email: jst@tnu.edu.vn TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES [1] Financial Accounting Standards Board [FASB], International standard setting: a vision for the future, Norwalk, 1999. [2] International Accounting Standards Board [IASB], Exposure draft on an improved conceptual framework for financial reporting: The objective of financial reporting and qualitative characteristics of decision-useful financial reporting information, London, 2008. [3] K. Schipper and L. Vincent, “Earnings Quality,” Accounting Horizons, no. 17, pp. 97-110, 2003. [4] H. Daske and G. Gebhardt, “International Financial Reporting Standards and Experts’ Perceptions of Disclosure Quality,” Abacus, no. 42(3-4), pp. 461-498, 2006. [5] F. V. Beest, G. Braam, and S. Boelens, “Quality of Financial Reporting: measuring qualitative characteristics,” NiCE Working Paper, no. 09-108, 2009. [6] C. Botosan, “Discussion of a framework for the analysis of risk communication,” The International Journal of Accounting, no. 39, pp. 289-295, 2004. [7] M. Barth, W. Landsman, and M. Lang, “International Accounting Standards and Accounting Quality,” Journal of Accounting Research, no. 46(3), pp. 467-498, 2008. [8] J. Cohen, G. Krishnamorthy, and A. Wright, “The corporate governance mosaic and financial reporting quality,” Journal of Accounting Literature, no. 23, pp. 87-152, 2004. [9] B. L. Nguyen, “Identify and control factors affecting the quality of accounting information in the environment of enterprise human resource planning (ERP) application in Vietnamese enterprises,” (in Vietnamese), Ph.D thesis, University of Economics Ho Chi Minh City, 2012. [10] V. N. Vo and T. T. H. Tran, “Some comments on the quality of financial statements of small and medium enterprises in Vietnam,” (in Vietnamese), Journal of Economics and Technology - Binh Duong Economics and Technology University, no. 02, pp. 3-14, 2013. [11] R. R. Nelson, P. A. Todd, and B. H. Wixom, “Antecedents of Information and System Quality: An Empirical Examination Within the Context of Data Warehousing,” Journal of Management Information Systems, vol. 21, no. 4, pp. 199-235, 2005. [12] W. DeLone and E. R. McLean, “The DeLone and McLean model of information systems success: A ten-year update,” Journal of Management Information Systems, no. 19(4), pp. 9-30, 2003. [13] P. Baltzan, Business driven information systems 3rd ed, New York: McGraw-Hill, 2012. [14] D. A. M. Kallob, Using the Information Qualitative Characteristics in Measuring the Quality of Financial Reporting of the Palestinian Banking Sector, Islamic University of Gaza High Studies Deanery Faculty of Commerce Accounting and finance, 2013. [15] G. Braam and F. V. Beest, “Conceptually-Based Financial Reporting Quality Assessment. An Empirical Analysis on Quality Differences Between UK Annual Reports and US 10-K Reports,” NiCE Working paper, no. 13-106, 2013. [16] International Accounting Standards Board [IASB], The conceptual framework for financial reporting, 2010. [17] L. McDaniel, R. Martin, and L. Maines, “Evaluating financial reporting quality: The effects of financial expertise vs. financial literacy,” The Accounting Review, no. 77, pp. 139-167, 2002. [18] M. Barth, W. Beaver, and W. Landsman, “The relevance of the value relevance literature for financial accounting standard setting: Another view,” Journal of Accounting and Economics, no. 31(1-3), pp. 77-104, 2001. [19] K. Schipper, “Commentary: Principles-based accounting standards,” Accounting Horizons, no. 17(1), pp. 61-72, 2003. [20] G. Jonas and J. Blanchet, “Assessing quality of financial reporting,” Accounting Horizons, no. 14(3), pp. 353-363, 2000. [21] D. Nichols and J. Wahlen, “How do earnings numbers relate to stock returns? A review of classic accounting research with updated evidence,” Accounting Horizons, no. 18(4), pp. 263-286, 2004. [22] E. Bartov and P. Mohanram, “Private information, earnings manipulations, and executive stock-option exercises,” The Accounting Review, no. 79(4), pp. 889-1010, 2004. [23] C. Deegan, “The legitimizing effect of social and environmental disclosures? A theoretical foundation,” Accounting, Auditing, and Accountability Journal, no. 15(3), pp. 282-311, 2002. [24] R. P. Orij, “Corporate social disclosures in the context of national cultures and stakeholder theory,” Accounting, Auditing, and Accountability Journal, no. 23(7), pp. 868-889, 2010. [25] M. Hoogendoorn and G. Mertens, “Kwaliteit van de financiële verslaggeving in Nederland,” Maandblad Accountancy, no. 10, pp. 406-420, 2001. [26] L. Maines and J. Wahlen, “The nature of accounting information reliability: Inferences from archival and experimental research,” Accounting Horizons, no. 20(4), pp. 399-425, 2006. TNU Journal of Science and Technology 226(08): 180 - 188 188 Email: jst@tnu.edu.vn [27] S. Van der Meulen, A. Gaeremynck, and M. Willekens, “Attribute differences between US GAAP and IFRS earnings: An exploratory study,” The International Journal of Accounting, no. 42(2), pp. 123-142, 2007. [28] K. Camfferman and T. E. Cooke, “An analysis of disclosure in the annual reports of U.K and Dutch companies,” Journal of International Accounting Research, no. 1(1), pp. 3-30, 2002. [29] H. Vander Bauwhede, What factors influence financial statement quality? A framework and some empirical evidence, Working Paper, 2001. [30] T. Gafarov, “Financial reporting quality control for internal control implementation,” Ph.D. thesis, Faculty of Business and Management, Brno University of Technology, pp. 148, 2009. [31] A. Gaeremynck and M. Willekens, “The endogenous relationship between auditreport type and business termination: Evidence on private firms in a non-litigious environment,” Accounting and Business Research, no. 33(1), pp. 65-79, 2003. [32] J. Kim, D. Simunic, M. Stein, and C. H. Yi, “Voluntary audits and the cost of debt capital for privately held firms: Korean evidence,” Contemporary Accounting Research, no. 28(2), pp. 585-615, 2011. [33] G. L. Gray, J. L. Turner, P. J. Coram, and T. J. Mock, “Perceptions and misperceptions regarding the unqualified auditor’s report by financial statement preparers, users, and auditors,” Accounting Horizons, no. 25(4), pp. 659-684, 2011. [34] P. Dechow and I. Dichev, “The quality of accruals and earnings: The role of accrual estimation errors,” The Accounting Review, no. 77, pp. 35-59, 2002. [35] D. McMullen, “Audit committee performance: An investigation of the consequences associated with audit committees,” Auditing: A Journal of Practice and Theory, no. 15(1), pp. 87-103, 1996. [36] M. Beasley, “An empirical analysis of the relation between board of director compensation and financial statement fraud,” The Accounting Review, no. 71(4), pp. 443-466, 1996. [37] Z. Rezaee, “High-quality financial reporting: The six-legged stool,” Strategic Finance, no. 84(8), pp. 26-30, 2003. [38] R. Sloan, “Financial accounting and corporate governance: A discussion,” Journal of Accounting and Economics, no. 32(1-3), pp. 335-347, 2001. [39] D. Burgstahler, L. Hail, and C. Leuz, “The importance of reporting incentives: Earnings management in European private and public firms,” The Accounting Review, no. 81(5), pp. 983-1016, 2006. [40] International Accounting Standards Board [IASB], Preliminary views on an improved conceptual framework for financial reporting: The objective of financial reporting and qualitative characteristics of decision-useful financial reporting information, London, 2006. [41] J. Iu and C. Clowes, Evaluating a measure of content quality for accounting narratives (with an empirical application to narratives from Australia, Hong Kong, and the United States), Working Paper Series, 2004. [42] Financial Accounting Standards Board [FASB], Conceptual framework for financial reporting (Chapter 3: Qualitative characteristics of useful financial information), Statement of Financial Accounting Concepts No. 8, Norwalk, CT, 2010. [43] R. Men and H. Wang, Analysis on the quality of strategic information disclosure in listed steel companies? Based on annual report, Paper presented at the Orient Academic Forum, 2008. [44] J. Courtis, “Readability of annual reports: Western versus Asian evidence,” Accounting, Auditing, and Accountability Journal, no. 8(2), pp. 4-17, 2005. [45] V. Cole, J. Branson, and D. Breesch, “How to measure the comparability of financial statements?” International Journal of Managerial and Financial Accounting, no. 1(4), pp. 379-397, 2009. [46] V. Cole, J. Branson, and D. Breesch, “The uniformity-flexibility dilemma when comparing financial statements: Views of auditors, analysts, and other users,” International Journal of Accounting and Information Management, no. 20(2), pp. 114-141, 2012. [47] S. Cleary, “The relationship between firm investment and financial status,” Journal of Finance, no. 54(2), pp. 673-692, 1999. [48] A. M. Lantto and P. Sahlström, “Impact of international financial reporting standard adoption on key financial ratios,” Accounting and Finance, no. 49(2), pp. 341-361, 2009. [49] G. De Franco, S. P. Kothari, and R. Verdi, “The benefits of financial statement comparability,” Journal of Accounting Research, no. 49(4), pp. 895-931, 2011. [50] C. Armstrong, M. E. Barth, A. Jagolinzer, and E. J. Riedl, “Market reaction to the adoption of IFRS in Europe,” The Accounting Review, no. 85(1), pp. 31-61, 2010. [51] S. Leventis and P. Weetman, “Timeliness of financial reporting: Applicability of disclosure theories in an emerging capital market,” Accounting and Business Research, no. 34(1), pp. 43-56, 2004.
File đính kèm:
- cac_tieu_chuan_do_luong_chat_luong_bao_cao_tai_chinh_dua_the.pdf