Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Việt Nam bắt đầu thực hiện bài bản việc quản lý nợ công kể từ năm 2009 khi lần đầu tiên

Luật quản lý nợ công được xây dựng và ban hành. Kể từ đó đến nay Việt Nam đi theo mô hình quản

lý nợ công thường được các quốc gia đang phát triển áp dụng đó là mô hình thị trường định hướng

với việc dần dần xây dựng và hoàn thiện thị trường trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên do một số hạn

chế còn tồn tại trong hệ thống quản lý nợ công, mô hình hiện tại cần phải được cải thiện để tương

thích với trình độ phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt các cú sốc kinh tế mới đây như khủng hoảng

kinh tế 2009, dịch Covid19 khiến quy mô nợ công gia tăng đột biến đòi hỏi một mô hình quản lý nợ

công kỹ trị và hiệu quả hơn. Bài viết phân tích các mô hình quản lý nợ công trên thế giới, sau đó tập

trung phân tích thực trạng mô hình quản lý nợ công hiện tại của Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả

chỉ ra những hạn chế trong mô hình này và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cấp mô hình hiện

tại sao cho phù hợp với thông lệ trên thế giới về quản lý nợ công theo trình độ phát triển của nền

kinh tế.

Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam trang 1

Trang 1

Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam trang 2

Trang 2

Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam trang 3

Trang 3

Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam trang 4

Trang 4

Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam trang 5

Trang 5

Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam trang 6

Trang 6

Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam trang 7

Trang 7

Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam trang 8

Trang 8

Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam trang 9

Trang 9

Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 14 trang baonam 16220
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam

Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam
VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 22-35 
22 
Review Article 
Models of Public Debt Management in the World 
and Lessons for Vietnam 
Pham Xuan Truong* 
Faculty of International Economics, Foreign Trade University, 91 Chua Lang, Dong Da, Hanoi, Vietnam 
Received 17 November 2020 
Revised 25 November 2020; Accepted 03 December 2020 
Abstract: Vietnam embarked on fundamentally building a public debt management system since 
2009 as the Law of Public Debt Management was designed and promulgated. From then Vietnam 
has been following the typical model of public debt management used by developing countries, the 
market – based model which encompasses gradual building and completion of domestic market for 
government bond. However, because of several limitations in the national system of public debt 
management, the current model needs to be improved in alignment with the development level of 
Vietnam’s economy. Especially, economic shocks such as the 2009 financial crisis or Covid 19 
which has increased dramatically the scope of public debt also urge a more technical and effective 
model. The paper focuses on analyzing the practical models of public debt management in the world 
and subsequently the current situation of Vietnam’s model. On that basis, the author figures out the 
limitations of the model and proposes a number of solutions to upgrade the model in accordance 
with the international practice regarding model of public debt management suitable with 
development level of economy. 
Keywords: Public debt, sustainable public debt, public debt management, risk management, model 
of public debt management. 
________ 
 Corresponding author. 
 Email address: truongpx@ftu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4278 
P.X. Truong / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 22-35 
23 
Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý 
chính sách cho Việt Nam 
Phạm Xuân Trường 
Khoa Kinh tế Quốc tế, Trường Đại học Ngoại Thương, 91 Chùa Láng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 17 tháng 11 năm 2020 
Chỉnh sửa ngày 25 tháng 11 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 03 tháng 12 năm 2020 
Tóm tắt: Việt Nam bắt đầu thực hiện bài bản việc quản lý nợ công kể từ năm 2009 khi lần đầu tiên 
Luật quản lý nợ công được xây dựng và ban hành. Kể từ đó đến nay Việt Nam đi theo mô hình quản 
lý nợ công thường được các quốc gia đang phát triển áp dụng đó là mô hình thị trường định hướng 
với việc dần dần xây dựng và hoàn thiện thị trường trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên do một số hạn 
chế còn tồn tại trong hệ thống quản lý nợ công, mô hình hiện tại cần phải được cải thiện để tương 
thích với trình độ phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt các cú sốc kinh tế mới đây như khủng hoảng 
kinh tế 2009, dịch Covid19 khiến quy mô nợ công gia tăng đột biến đòi hỏi một mô hình quản lý nợ 
công kỹ trị và hiệu quả hơn. Bài viết phân tích các mô hình quản lý nợ công trên thế giới, sau đó tập 
trung phân tích thực trạng mô hình quản lý nợ công hiện tại của Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả 
chỉ ra những hạn chế trong mô hình này và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cấp mô hình hiện 
tại sao cho phù hợp với thông lệ trên thế giới về quản lý nợ công theo trình độ phát triển của nền 
kinh tế. 
Từ khóa: Nợ công, nợ công bền vững, quản lý nợ công, quản trị rủi ro, mô hình quản lý nợ công. 
1. Mở đầu 
Nợ công từ lâu đã trở thành mối quan tâm 
hàng đầu của các chính phủ trong vấn đề ổn định 
kinh tế vĩ mô. Một quốc gia có nợ công cao, khả 
năng thanh toán bấp bênh không thể duy trì một 
môi trường vĩ mô ổn định cho nền kinh tế. Ngược 
lại, một quốc gia nợ công ở mức vừa phải, có khả 
năng thanh toán tốt các khoản nợ đến hạn thường 
sẽ có một môi trường vĩ mô ổn định. Mô hình 
quản lý nợ công hiệu quả là một yếu tố rất quan 
trọng để đảm bảo trạng thái nợ công khỏe mạnh, 
từ đó đảm bảo cho nền kinh tế có một nền tảng 
vĩ mô tốt. Trên thế giới có rất nhiều mô hình 
quản lý nợ công đã được các chính phủ các quốc 
gia áp dụng như mô hình quản lý nợ công có cơ 
________ 
 Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: truongpx@ftu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4278 
quan chuyên biệt trực thuộc Bộ Tài chính (BTC) 
với mô hình quản lý nợ công có cơ quan chuyên 
biệt độc lập; mô hình quản lý nợ công có chiến 
lược với mô hình quản lý nợ công không có 
chiến lược, Mỗi một mô hình quản lý nợ công 
như vậy lại phù hợp với trình độ phát triển nhất 
định của nền kinh tế. Bài viết sẽ chỉ ra các mô 
hình quản lý nợ công đang được thực hiện trên 
thế giới, từ đó xác định Việt Nam đang thực 
hiện mô hình quản lý nợ công nào và Việt Nam 
cần phải làm gì để nâng cấp mô hình quản lý 
nợ công nhằm khắc phục những hạn chế của 
mô hình hiện tại. 
P.X. Truong / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 22-35 
24 
2. Quản lý nợ công và các mô hình quản lý nợ 
công trên thế g ... ngày 09/11/2006 của Chính 
phủ ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn 
hỗ trợ phát triển chính thức. Việt Nam cũng chưa 
có cơ quan chuyên biệt để quản lý nợ công, càng 
không có chiến lược quản lý nợ công. Như vậy 
có thể thấy trước năm 2009, Việt Nam theo mô 
hình quản lý nợ công đặc trưng của một nước 
kém phát triển, cho dù thực tế lúc đấy đối xử Việt 
Nam nhận được từ các tổ chức quốc tế là đối với 
nước đang phát triển. Điều này cho thấy tại thời 
điểm đó Việt Nam đang tụt hậu so với thế giới 
trong cách thức tổ chức quản lý nợ công. 
Thấy rõ được ích lợi của một hệ thống quản 
lý nợ công bài bản, đặc biệt là sau cuộc khủng 
hoảng kinh tế 2008. Việt Nam trong năm 2009 
đã ban hành Luật quản lý nợ công 2009 và mới 
nhất là là bản sửa đổi năm 2017, từ đó việc quản 
lý nợ công mới bắt đầu có tổ chức. Cục quản lý 
nợ thuộc BTC cũng đã được thành lập theo quyết 
định của 1168/QĐ-BTC ngày 22/5/2009. Ngay 
sau đó chiến lược quản lý nợ trung và dài hạn 
giai đoạn 2011 – 2020 tầm nhìn đến năm 2030 
được thiết lập theo Quyết định 958/QĐ-TTg của 
thủ tướng chính phủ. Quy định nghiệp vụ quản 
lý nợ công chi tiết hơn còn được Chính phủ 
hướng dẫn qua Quyết định về quy chế và xử lý 
rủi ro đối với danh mục nợ công năm 2012 và 
Nghị định về nghiệp vụ quản lý nợ công năm 
2018. Ngoài ra Quốc hội cơ quan quyền lực cao 
nhất cũng ấn định những tiêu chí quan trọng như 
trần nợ công, tạo cơ sở pháp lý cho việc giám sát 
thông qua Nghị quyết chi tiêu ngân sách giai 
đoạn 2016 – 2020, giai đoạn 2021 – 2025 và 
trước đó là kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 
________ 
3 Xem thêm về các bản tin nợ công của Việt Nam tại 
https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/btc/r/lvtc/qln 
2011 – 2015. Thậm chí vấn đề về nợ công còn 
được sự chỉ đạo sát sao từ Đảng thông qua Nghị 
quyết 07/NQ-TW ngày 18/11/2016 của Bộ 
Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân 
sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền 
tài chính quốc gia an toàn, bền vững. Với nỗ lực 
phát triển thị trường trái phiếu trong những năm 
trở lại đây cộng với việc kiện toàn hệ thống pháp 
lý quản lý nợ công, chiến lược quản lý nợ công 
và tổ chức hoạt động quản lý nợ công, Việt Nam 
đang thực sự xây dựng mô hình quản lý nợ công 
đặc trưng đối với các nước đang phát triển trong 
giai đoạn quản lý nợ theo hệ thống thị trường 
định hướng. Hình 3 dưới đây mô tả mô hình quản 
lý nợ công hiện tại của Việt Nam. 
Đây là mô hình quản lý như phân tích ở Hình 
2 được nhiều nước đang phát triển sử dụng nhất 
là trong giai đoạn khi mới hình thành thị trường 
trái phiếu nói riêng và thị trường vốn nói chung 
ở trong nước. Cụ thể, Việt Nam đã có một cơ 
quan chuyên trách quản lý nợ công trực thuộc 
BTC, có chiến lược quản lý nợ công với những 
chỉ tiêu an toàn được Quốc hội quy định và hoạt 
động quản lý nợ công được phối hợp chặt chẽ với 
chính sách tài khóa nhằm hướng đến nền tài 
chính quốc gia an toàn, bền vững. 
Kết quả rõ rệt khi mô hình quản lý nợ công 
bài bản được hình thành đó là các số liệu nợ công 
được cập nhật thường xuyên trong bản tin nợ 
công công bố định kỳ bởi BTC3. Các đánh giá 
phân tích nợ công Việt Nam vì thế trở nên dễ 
dàng, thực tiễn và định lượng hơn [20]. Đây là 
cơ sở cho công tác điều hành quản lý nợ công trở 
nên hiệu quả. Kết quả là các chỉ tiêu nợ công 
luôn nằm trong ngưỡng an toàn được Quốc hội 
ấn định, trừ tỷ trọng nợ công nước ngoài hiện vẫn 
đang hơn ngưỡng một chút (xem bảng 2). Một 
biểu hiện khác cho việc quản lý nợ công hiệu quả 
đó là xếp hạng tín nhiệm quốc gia liên tục được 
nâng cao trong những năm gần đây. Đánh giá của 
S&P, Fitch và Moody dành cho xếp hạng tín 
nhiệm của Việt Nam liên tục tăng trong giai đoạn 
2009 - 2018 (trong giai đoạn này Moody thăng 
hạng Việt Nam từ B1 lên Ba3; Fitch BB- lên BB; 
P.X. Truong / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 22-35 
32 
S&P giữ nguyên ở mức BB)4. Đặc biệt, ngay 
trong thời điểm khó khăn do dịch Covid 19 gây 
ra thì xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam là một 
trường hợp ngoại lệ khi vẫn duy trì được mức tín 
nhiệm không đổi với triển vọng ổn định trong 
tương lai [21]. 
Hình 3. Mô hình quản lý nợ công ở Việt Nam. 
Nguồn: Tác giả tổng hợp dựa trên Luật quản lý nợ công 2017. 
________ 
4 Xem lịch sử xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam 
tại https://tradingeconomics.com/vietnam/rating 
P.X. Truong / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 22-35 
33 
Bảng 2. Tỷ trọng nợ công/GDP và nợ nước ngoài/tổng nợ công giai đoạn 2006 – 2018 
Đơn vị: phần trăm 
 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 
Tỷ trọng 
nợ 
công/GDP 
45,9 49,7 47,9 51,0 54,3 54,9 50,8 54,5 58,0 61,0 63,7 61,4 58,4 
Ngưỡng 
an toàn tỷ 
trọng nợ 
công/GDP 
60 60 60 60 60 65 65 65 65 65 65 65 65 
Tỷ trọng 
nợ nước 
ngoài/tổng 
nợ công 
58,2 56,9 52,4 57,5 55,8 43,3 45,8 50,2 54,6 58,0 59,0 59,7 40,6 
Ngưỡng 
an toàn tỷ 
trọng nợ 
nước 
ngoài/tổng 
nợ công 
50 50 50 50 50 50 50 50 50 50 50 50 50 
Nguồn: Tác giả tổng hợp dựa trên số liệu của Bản tin nợ công Việt Nam giai đoạn 2006 – 2018. 
Như đã phân tích ở trên, xét tổng hòa các 
điều kiện về hệ thống pháp lý, năng lực đội ngũ 
cán bộ và cơ sở công nghệ ở Việt Nam hiện nay 
thì mô hình quản lý nợ công đang có là phù hợp. 
Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế tồn tại trong 
hệ thống quản lý nợ công của Việt Nam khi so 
sánh với những thực tiễn áp dụng tốt mô hình 
tương tự trên thế giới đó là: i) hệ thống pháp luật 
còn thiếu đặc biệt trong khâu kiểm tra, giám sát 
hoạt động quản lý nợ công của chính phủ ii) số 
liệu chưa được đầy đủ, thiếu cập nhật iii) thiếu 
nguồn nhân lực có chất lượng nên phần phân tích 
đánh giá và dự báo về nợ công phục vụ công tác 
quản lý còn yếu iv) hoạt động kiểm toán nợ công 
nói chung còn nhiều bất cập khiến nhiều vụ việc 
vi phạm chi tiêu ngân sách nhưng đến khi bại lộ 
thì kiểm toán mới vào cuộc [22-23]. 
Trong điều kiện ngày càng xuất hiện nhiều 
cú sốc thị trường (như khủng hoảng kinh tế 2008, 
đại dịch Covid 19), bối cảnh cần phải có sự can 
thiệp mạnh mẽ từ chính phủ cùng với đó là sự 
giảm dần các nguồn vốn vay ưu đãi từ bên ngoài 
khiến cho việc cải thiện chất lượng hệ thống 
quản lý nợ công là cần thiết hơn bao giờ hết. 
Ngoài ra, ngay kể cả khi khắc phục được tất cả 
các hạn chế nêu trên thì mô hình quản lý nợ công 
tại Việt Nam trong dài hạn nếu giữ nguyên sẽ 
không thể theo kịp thực tiễn khi các công cụ tài 
chính tài trợ nợ công ngày càng trở nên phức tạp 
hơn, các cơ quan chính phủ sử dụng ngân sách 
với những mục tiêu riêng ngày càng chuyên biệt 
và dữ liệu về nợ công ngày càng nhiều. Điều này 
đòi hỏi việc chuyển đổi mô hình hiện tại sang mô 
hình quản lý nợ công tiệm cận các quốc gia mới 
nổi. Nếu khắc phục những hạn chế trong mô hình 
quản lý nợ công hiện tại là những mục tiêu trong 
ngắn hạn thì việc chuyển đổi mô hình quản lý nợ 
công sẽ là một mục tiêu trong dài hạn. 
4. Giải pháp xây dựng mô hình quản lý nợ 
công hiệu quả ở Việt Nam 
Để khắc phục được những hạn chế hiện tại 
của hệ thống và dần dần chuyển sang mô hình 
quản lý nợ công hiện đại hơn, chính phủ Việt 
Nam cần thực hiện một số giải pháp sau đây: 
Trước hết cần đào tạo nguồn nhân lực phù 
hợp, đáp ứng được nhu cầu về thu thập, xử lý số 
P.X. Truong / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 22-35 
34 
liệu, từ đó đưa ra các phân tích, dự báo chất 
lượng. Hoạt động này sẽ dễ dàng hơn nếu chúng 
ta có được sự trợ giúp kỹ thuật từ phía IMF, WB 
và các quốc gia có mô hình quản lý nợ công hiện 
đại hơn. Thứ hai, chính phủ cần phải cải thiện hệ 
thống thông tin, nâng cấp công nghệ để nhanh 
chóng cập nhật số liệu từ các bộ ban ngành, địa 
phương và công khai trên website (ví dụ website 
ckns.mof.gov.vn công khai số liệu ngân sách của 
tất cả các địa phương và bộ ban ngành). Việc 
minh bạch thông tin và cung cấp thông tin nhanh 
chóng vô hình chung sẽ tạo nên sức ép trong việc 
cải thiện chất lượng số liệu nợ công khi có nhiều 
bên có thể tham gia vào việc phản biện các vấn 
đề về số liệu. Thứ ba, phát triển thị trường trái 
phiếu nói riêng và thị trường vốn trong nước nói 
chung để dần gia tăng tỷ lệ nợ trong nước trong 
tổng nợ công. Đây là một trong những mục tiêu 
gián tiếp của quản lý nợ công khi nợ trong nước 
cơ bản sẽ có chi phí vay nợ thấp hơn nợ nước 
ngoài cùng với các rủi ro đi kèm ít hơn. Có thể 
thấy nợ nước ngoài trong tổng nợ công luôn ở 
ngưỡng vượt trần (dù ít), chưa kể chi phí đi vay 
nước ngoài sẽ ngày càng tăng khi Việt Nam 
không còn là một quốc gia có thu nhập bình quân 
đầu người thấp nữa. Hai yếu tố trên sẽ càng thúc 
đẩy chính phủ phát triển thị trường vốn trong 
nước ngày càng hoàn thiện. Thứ tư, chính phủ 
cần lên kế hoạch kiểm soát các khoản nợ tiềm 
tàng trong hoạt động quản lý nợ công càng sớm 
càng tốt. Những khoản nợ trong tương lai của 
quỹ bảo hiểm xã hội quốc gia, những khoản nợ 
trong dự án PPP là những ví dụ của nợ tiềm 
tàng, những khoản nợ mà khi tình hình kinh tế 
xấu đi sẽ thật sự tạo thành gánh nặng cho chính 
phủ nhưng lại chưa được quy định trong nợ công 
theo luật và từ đó là hoạt động quản lý nợ công. 
Thứ năm, chính phủ cần định hướng rõ hơn sự 
phối hợp giữa ba chính sách tài khóa, tiền tệ và 
quản lý nợ công trong một thể thống nhất. Nội 
dung phối hợp này có thể được ghi trong chiến 
lược quản lý nợ công, đặc biệt là đối với các tình 
huống phải đánh đổi mục tiêu giữa các chính 
sách này. Cuối cùng, nhà nước nên kiện toàn hệ 
thống kiểm toán đối với ngân sách trong đó trao 
thêm nhiều quyền hơn nữa cho kiểm toán nhà 
nước trong việc cảnh báo cho chính phủ những 
khoản chi, khoản vay có thể dẫn đến rủi ro lớn 
hoặc vi phạm pháp luật về quản lý nợ công. 
5. Kết luận 
Quản lý nợ công là một trong những nhân tố 
quan trọng ảnh hưởng đến mức độ bền vững của 
nợ công, từ đó góp phần duy trì ổn định vĩ mô và 
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trên thế giới đã 
hình thành bốn mô hình quản lý nợ công dựa trên 
thực tiễn triển khai ở nhóm các quốc gia theo 
trình độ phát triển của nền kinh tế. Đó là mô hình 
quản lý nợ công ở các nước kém phát triển, đang 
phát triển, chuyển đổi và phát triển. Mỗi một mô 
hình sẽ có một kỹ thuật quản lý, cơ cấu bộ máy 
quản lý và cách thức quản lý khác nhau. Hiện tại 
Việt Nam đang quản lý theo mô hình các nước 
đang phát triển với công cụ chính là thị trường 
trái phiếu chính phủ, có cơ quan quản lý chuyên 
trách nằm trong BTC và có luật cũng như chiến 
lược quản lý nợ công riêng biệt. Tuy nhiên với 
sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là thị 
trường tài chính thì mô hình hiện tại bộc lộ một 
vài bất cập. Dựa trên muc tiêu là nâng cấp mô 
hình lên mô hình của các nước phát triển hơn, 
Việt Nam cần phải tập trung vào các giải pháp 
liên quan đến nhân lực, thông tin và thể chế. 
Trong đó phát triển thị trường trái phiếu chính 
phủ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực liên 
quan đến quản lý nợ công là những giải pháp có 
tính quyết định. 
Tài liệu tham khảo 
[1] D.Q. Bao, The science of Management and 
Organization Statistical Publishing House, Hanoi, 
1999 (in Vietnamese), 
[2] IMF, Defining the Government’s debt and deficit, 
Working paper, WP/15/238, 2015. 
[3] IMF, Revised guidelines for public debt 
management, IMF Policy paper, 2014. 
[4] WB, Government debt management: Designing 
debt management strategies, Debt management 
learning & training note, 2017. 
[5] E. Currie, J. Dethier and E. Togo, Institutional 
arrangements for Public Debt Management, World 
Bank Policy Research Working Paper 3021, 2003. 
P.X. Truong / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 22-35 
35 
[6] E.C. Pascal, The debt office and the effective debt 
management functions: an institutional and 
operational framework, Public debt and Public 
Finance Working Paper, 2006. 
[7] H. Bohn, Tax Smoothing with Financial 
Instruments, American Economic Review, 80/5 
(1990) pp 1217–1230. 
[8] J. Tobin, An Essay on the Principles of Debt 
Management, Fiscal and Debt Management 
Policies, 2 (1963), Reprinted in J. Tobin Essays in 
Economics, vol.1, Amsterdam: North Holland, 
1971. 
[9] E. Togo, Coordinating Public Debt Management 
with Fiscal and Monetary Policies: An Analytical 
Framework, World Bank Policy Research Working 
Paper, No. 4369, 2007. 
[10] L. Hoogduin, B. Ozturk & P.Wierts, Public debt 
managers’ behavior: interactions with macro 
policies, DNB Working paper No.273, 2010. 
[11] WB, Debt management performance assessment 
(DeMPA) methodology, 2015. 
[12] R. Cabral, How strategically is public debt being 
managed around the globe? A survey on public 
debt management strategies, WB Financial 
advisory and Banking department report, 2015. 
[13] C. Aslan, A. Ajazaj & S.A. Wahidh, Study on 
Public debt management system and results of a 
survey on solutions used by debt management 
office, WB Financial advisory and Banking 
department report, 2018. 
[14] IMF, G-20 note: Improving public debt recording, 
monitoring, and reporting capacity in low and lower 
middle-income countries: proposed reforms, 2018. 
[15] A.A. Badurina, S. Svaljek, Public debt 
management before, during and after the crisis, 
Finance theory and practice, 36(1) (2012) 73 – 100. 
[16] I. Storkey, Sound practice, in: M. Williams and P. 
Brione (Eds.), Government Debt Management: 
New Trends and Challenge, Central Banking 
Publications Ltd, London, 2006, pp 300 – 325. 
[17] G. Wheeler, Sound Practice in Government Debt 
Management, The World Bank Publication, 
Washington D.C, 2004. doi. 10.1596/0-8213-5073-0. 
[18] National Treasury Management Agency, Ireland 
Information Memorandum 2010, National 
Treasury Management Agency, Dublin, 2010. 
[19] M. Williams, The growing responsibilities of debt 
management offices, in: M. Williams, P. Brione 
(Eds.), Government Debt Management: New 
Trends and Challenge, Central Banking 
Publications Ltd, London, 2006, pp 258 – 273. 
[20] H.N. Au, Public debt management in Vietnam in 
the international integration period (in 
Vietnamese), 
https://hcma.vn/Uploads/2018/8/8/Hoang%20Ngo
c%20Au%20-%20Luan%20an%20-
%20CN%20Quan%20ly%20kinh%20te.pdf, 2018 
(accessed 20 August 2020). 
[21] T. Phung, Firmly maintaining the country’s credit 
rate (in Vietnamese), 
kien-noi-bat/tiep-tuc-giu-vung-muc-xep-hang-tin-
nhiem-quoc-gia-325601.html, 2020 (accessed 21 
August 2020). 
[22] N.T. Binh, The factors affecting the efficiency of 
public debt management in Vietnam (in 
Vietnamese), 
to-anh-huong-toi-hieu-qua-quan-ly-no-cong-o-
viet-nam-73005.htm, 2020 (accessed 22 August 
2020). 
[23] T. Anh, Six solutions for public management in the 
new context (in Vietnamese), 
phap-quan-ly-no-cong-trong-boi-canh-moi-
308263.html, 2019 (accessed 23 August 2020).

File đính kèm:

  • pdfcac_mo_hinh_quan_ly_no_cong_tren_the_gioi_va_ham_y_chinh_sac.pdf