Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam
Việt Nam bắt đầu thực hiện bài bản việc quản lý nợ công kể từ năm 2009 khi lần đầu tiên
Luật quản lý nợ công được xây dựng và ban hành. Kể từ đó đến nay Việt Nam đi theo mô hình quản
lý nợ công thường được các quốc gia đang phát triển áp dụng đó là mô hình thị trường định hướng
với việc dần dần xây dựng và hoàn thiện thị trường trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên do một số hạn
chế còn tồn tại trong hệ thống quản lý nợ công, mô hình hiện tại cần phải được cải thiện để tương
thích với trình độ phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt các cú sốc kinh tế mới đây như khủng hoảng
kinh tế 2009, dịch Covid19 khiến quy mô nợ công gia tăng đột biến đòi hỏi một mô hình quản lý nợ
công kỹ trị và hiệu quả hơn. Bài viết phân tích các mô hình quản lý nợ công trên thế giới, sau đó tập
trung phân tích thực trạng mô hình quản lý nợ công hiện tại của Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả
chỉ ra những hạn chế trong mô hình này và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cấp mô hình hiện
tại sao cho phù hợp với thông lệ trên thế giới về quản lý nợ công theo trình độ phát triển của nền
kinh tế.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam
VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 22-35 22 Review Article Models of Public Debt Management in the World and Lessons for Vietnam Pham Xuan Truong* Faculty of International Economics, Foreign Trade University, 91 Chua Lang, Dong Da, Hanoi, Vietnam Received 17 November 2020 Revised 25 November 2020; Accepted 03 December 2020 Abstract: Vietnam embarked on fundamentally building a public debt management system since 2009 as the Law of Public Debt Management was designed and promulgated. From then Vietnam has been following the typical model of public debt management used by developing countries, the market – based model which encompasses gradual building and completion of domestic market for government bond. However, because of several limitations in the national system of public debt management, the current model needs to be improved in alignment with the development level of Vietnam’s economy. Especially, economic shocks such as the 2009 financial crisis or Covid 19 which has increased dramatically the scope of public debt also urge a more technical and effective model. The paper focuses on analyzing the practical models of public debt management in the world and subsequently the current situation of Vietnam’s model. On that basis, the author figures out the limitations of the model and proposes a number of solutions to upgrade the model in accordance with the international practice regarding model of public debt management suitable with development level of economy. Keywords: Public debt, sustainable public debt, public debt management, risk management, model of public debt management. ________ Corresponding author. Email address: truongpx@ftu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4278 P.X. Truong / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 22-35 23 Các mô hình quản lý nợ công trên thế giới và hàm ý chính sách cho Việt Nam Phạm Xuân Trường Khoa Kinh tế Quốc tế, Trường Đại học Ngoại Thương, 91 Chùa Láng, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 17 tháng 11 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 25 tháng 11 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 03 tháng 12 năm 2020 Tóm tắt: Việt Nam bắt đầu thực hiện bài bản việc quản lý nợ công kể từ năm 2009 khi lần đầu tiên Luật quản lý nợ công được xây dựng và ban hành. Kể từ đó đến nay Việt Nam đi theo mô hình quản lý nợ công thường được các quốc gia đang phát triển áp dụng đó là mô hình thị trường định hướng với việc dần dần xây dựng và hoàn thiện thị trường trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên do một số hạn chế còn tồn tại trong hệ thống quản lý nợ công, mô hình hiện tại cần phải được cải thiện để tương thích với trình độ phát triển của nền kinh tế. Đặc biệt các cú sốc kinh tế mới đây như khủng hoảng kinh tế 2009, dịch Covid19 khiến quy mô nợ công gia tăng đột biến đòi hỏi một mô hình quản lý nợ công kỹ trị và hiệu quả hơn. Bài viết phân tích các mô hình quản lý nợ công trên thế giới, sau đó tập trung phân tích thực trạng mô hình quản lý nợ công hiện tại của Việt Nam. Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra những hạn chế trong mô hình này và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cấp mô hình hiện tại sao cho phù hợp với thông lệ trên thế giới về quản lý nợ công theo trình độ phát triển của nền kinh tế. Từ khóa: Nợ công, nợ công bền vững, quản lý nợ công, quản trị rủi ro, mô hình quản lý nợ công. 1. Mở đầu Nợ công từ lâu đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của các chính phủ trong vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô. Một quốc gia có nợ công cao, khả năng thanh toán bấp bênh không thể duy trì một môi trường vĩ mô ổn định cho nền kinh tế. Ngược lại, một quốc gia nợ công ở mức vừa phải, có khả năng thanh toán tốt các khoản nợ đến hạn thường sẽ có một môi trường vĩ mô ổn định. Mô hình quản lý nợ công hiệu quả là một yếu tố rất quan trọng để đảm bảo trạng thái nợ công khỏe mạnh, từ đó đảm bảo cho nền kinh tế có một nền tảng vĩ mô tốt. Trên thế giới có rất nhiều mô hình quản lý nợ công đã được các chính phủ các quốc gia áp dụng như mô hình quản lý nợ công có cơ ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: truongpx@ftu.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1116/vnupam.4278 quan chuyên biệt trực thuộc Bộ Tài chính (BTC) với mô hình quản lý nợ công có cơ quan chuyên biệt độc lập; mô hình quản lý nợ công có chiến lược với mô hình quản lý nợ công không có chiến lược, Mỗi một mô hình quản lý nợ công như vậy lại phù hợp với trình độ phát triển nhất định của nền kinh tế. Bài viết sẽ chỉ ra các mô hình quản lý nợ công đang được thực hiện trên thế giới, từ đó xác định Việt Nam đang thực hiện mô hình quản lý nợ công nào và Việt Nam cần phải làm gì để nâng cấp mô hình quản lý nợ công nhằm khắc phục những hạn chế của mô hình hiện tại. P.X. Truong / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 22-35 24 2. Quản lý nợ công và các mô hình quản lý nợ công trên thế g ... ngày 09/11/2006 của Chính phủ ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức. Việt Nam cũng chưa có cơ quan chuyên biệt để quản lý nợ công, càng không có chiến lược quản lý nợ công. Như vậy có thể thấy trước năm 2009, Việt Nam theo mô hình quản lý nợ công đặc trưng của một nước kém phát triển, cho dù thực tế lúc đấy đối xử Việt Nam nhận được từ các tổ chức quốc tế là đối với nước đang phát triển. Điều này cho thấy tại thời điểm đó Việt Nam đang tụt hậu so với thế giới trong cách thức tổ chức quản lý nợ công. Thấy rõ được ích lợi của một hệ thống quản lý nợ công bài bản, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng kinh tế 2008. Việt Nam trong năm 2009 đã ban hành Luật quản lý nợ công 2009 và mới nhất là là bản sửa đổi năm 2017, từ đó việc quản lý nợ công mới bắt đầu có tổ chức. Cục quản lý nợ thuộc BTC cũng đã được thành lập theo quyết định của 1168/QĐ-BTC ngày 22/5/2009. Ngay sau đó chiến lược quản lý nợ trung và dài hạn giai đoạn 2011 – 2020 tầm nhìn đến năm 2030 được thiết lập theo Quyết định 958/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ. Quy định nghiệp vụ quản lý nợ công chi tiết hơn còn được Chính phủ hướng dẫn qua Quyết định về quy chế và xử lý rủi ro đối với danh mục nợ công năm 2012 và Nghị định về nghiệp vụ quản lý nợ công năm 2018. Ngoài ra Quốc hội cơ quan quyền lực cao nhất cũng ấn định những tiêu chí quan trọng như trần nợ công, tạo cơ sở pháp lý cho việc giám sát thông qua Nghị quyết chi tiêu ngân sách giai đoạn 2016 – 2020, giai đoạn 2021 – 2025 và trước đó là kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ________ 3 Xem thêm về các bản tin nợ công của Việt Nam tại https://www.mof.gov.vn/webcenter/portal/btc/r/lvtc/qln 2011 – 2015. Thậm chí vấn đề về nợ công còn được sự chỉ đạo sát sao từ Đảng thông qua Nghị quyết 07/NQ-TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững. Với nỗ lực phát triển thị trường trái phiếu trong những năm trở lại đây cộng với việc kiện toàn hệ thống pháp lý quản lý nợ công, chiến lược quản lý nợ công và tổ chức hoạt động quản lý nợ công, Việt Nam đang thực sự xây dựng mô hình quản lý nợ công đặc trưng đối với các nước đang phát triển trong giai đoạn quản lý nợ theo hệ thống thị trường định hướng. Hình 3 dưới đây mô tả mô hình quản lý nợ công hiện tại của Việt Nam. Đây là mô hình quản lý như phân tích ở Hình 2 được nhiều nước đang phát triển sử dụng nhất là trong giai đoạn khi mới hình thành thị trường trái phiếu nói riêng và thị trường vốn nói chung ở trong nước. Cụ thể, Việt Nam đã có một cơ quan chuyên trách quản lý nợ công trực thuộc BTC, có chiến lược quản lý nợ công với những chỉ tiêu an toàn được Quốc hội quy định và hoạt động quản lý nợ công được phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa nhằm hướng đến nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững. Kết quả rõ rệt khi mô hình quản lý nợ công bài bản được hình thành đó là các số liệu nợ công được cập nhật thường xuyên trong bản tin nợ công công bố định kỳ bởi BTC3. Các đánh giá phân tích nợ công Việt Nam vì thế trở nên dễ dàng, thực tiễn và định lượng hơn [20]. Đây là cơ sở cho công tác điều hành quản lý nợ công trở nên hiệu quả. Kết quả là các chỉ tiêu nợ công luôn nằm trong ngưỡng an toàn được Quốc hội ấn định, trừ tỷ trọng nợ công nước ngoài hiện vẫn đang hơn ngưỡng một chút (xem bảng 2). Một biểu hiện khác cho việc quản lý nợ công hiệu quả đó là xếp hạng tín nhiệm quốc gia liên tục được nâng cao trong những năm gần đây. Đánh giá của S&P, Fitch và Moody dành cho xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam liên tục tăng trong giai đoạn 2009 - 2018 (trong giai đoạn này Moody thăng hạng Việt Nam từ B1 lên Ba3; Fitch BB- lên BB; P.X. Truong / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 22-35 32 S&P giữ nguyên ở mức BB)4. Đặc biệt, ngay trong thời điểm khó khăn do dịch Covid 19 gây ra thì xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam là một trường hợp ngoại lệ khi vẫn duy trì được mức tín nhiệm không đổi với triển vọng ổn định trong tương lai [21]. Hình 3. Mô hình quản lý nợ công ở Việt Nam. Nguồn: Tác giả tổng hợp dựa trên Luật quản lý nợ công 2017. ________ 4 Xem lịch sử xếp hạng tín nhiệm quốc gia của Việt Nam tại https://tradingeconomics.com/vietnam/rating P.X. Truong / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 22-35 33 Bảng 2. Tỷ trọng nợ công/GDP và nợ nước ngoài/tổng nợ công giai đoạn 2006 – 2018 Đơn vị: phần trăm 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 Tỷ trọng nợ công/GDP 45,9 49,7 47,9 51,0 54,3 54,9 50,8 54,5 58,0 61,0 63,7 61,4 58,4 Ngưỡng an toàn tỷ trọng nợ công/GDP 60 60 60 60 60 65 65 65 65 65 65 65 65 Tỷ trọng nợ nước ngoài/tổng nợ công 58,2 56,9 52,4 57,5 55,8 43,3 45,8 50,2 54,6 58,0 59,0 59,7 40,6 Ngưỡng an toàn tỷ trọng nợ nước ngoài/tổng nợ công 50 50 50 50 50 50 50 50 50 50 50 50 50 Nguồn: Tác giả tổng hợp dựa trên số liệu của Bản tin nợ công Việt Nam giai đoạn 2006 – 2018. Như đã phân tích ở trên, xét tổng hòa các điều kiện về hệ thống pháp lý, năng lực đội ngũ cán bộ và cơ sở công nghệ ở Việt Nam hiện nay thì mô hình quản lý nợ công đang có là phù hợp. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế tồn tại trong hệ thống quản lý nợ công của Việt Nam khi so sánh với những thực tiễn áp dụng tốt mô hình tương tự trên thế giới đó là: i) hệ thống pháp luật còn thiếu đặc biệt trong khâu kiểm tra, giám sát hoạt động quản lý nợ công của chính phủ ii) số liệu chưa được đầy đủ, thiếu cập nhật iii) thiếu nguồn nhân lực có chất lượng nên phần phân tích đánh giá và dự báo về nợ công phục vụ công tác quản lý còn yếu iv) hoạt động kiểm toán nợ công nói chung còn nhiều bất cập khiến nhiều vụ việc vi phạm chi tiêu ngân sách nhưng đến khi bại lộ thì kiểm toán mới vào cuộc [22-23]. Trong điều kiện ngày càng xuất hiện nhiều cú sốc thị trường (như khủng hoảng kinh tế 2008, đại dịch Covid 19), bối cảnh cần phải có sự can thiệp mạnh mẽ từ chính phủ cùng với đó là sự giảm dần các nguồn vốn vay ưu đãi từ bên ngoài khiến cho việc cải thiện chất lượng hệ thống quản lý nợ công là cần thiết hơn bao giờ hết. Ngoài ra, ngay kể cả khi khắc phục được tất cả các hạn chế nêu trên thì mô hình quản lý nợ công tại Việt Nam trong dài hạn nếu giữ nguyên sẽ không thể theo kịp thực tiễn khi các công cụ tài chính tài trợ nợ công ngày càng trở nên phức tạp hơn, các cơ quan chính phủ sử dụng ngân sách với những mục tiêu riêng ngày càng chuyên biệt và dữ liệu về nợ công ngày càng nhiều. Điều này đòi hỏi việc chuyển đổi mô hình hiện tại sang mô hình quản lý nợ công tiệm cận các quốc gia mới nổi. Nếu khắc phục những hạn chế trong mô hình quản lý nợ công hiện tại là những mục tiêu trong ngắn hạn thì việc chuyển đổi mô hình quản lý nợ công sẽ là một mục tiêu trong dài hạn. 4. Giải pháp xây dựng mô hình quản lý nợ công hiệu quả ở Việt Nam Để khắc phục được những hạn chế hiện tại của hệ thống và dần dần chuyển sang mô hình quản lý nợ công hiện đại hơn, chính phủ Việt Nam cần thực hiện một số giải pháp sau đây: Trước hết cần đào tạo nguồn nhân lực phù hợp, đáp ứng được nhu cầu về thu thập, xử lý số P.X. Truong / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 22-35 34 liệu, từ đó đưa ra các phân tích, dự báo chất lượng. Hoạt động này sẽ dễ dàng hơn nếu chúng ta có được sự trợ giúp kỹ thuật từ phía IMF, WB và các quốc gia có mô hình quản lý nợ công hiện đại hơn. Thứ hai, chính phủ cần phải cải thiện hệ thống thông tin, nâng cấp công nghệ để nhanh chóng cập nhật số liệu từ các bộ ban ngành, địa phương và công khai trên website (ví dụ website ckns.mof.gov.vn công khai số liệu ngân sách của tất cả các địa phương và bộ ban ngành). Việc minh bạch thông tin và cung cấp thông tin nhanh chóng vô hình chung sẽ tạo nên sức ép trong việc cải thiện chất lượng số liệu nợ công khi có nhiều bên có thể tham gia vào việc phản biện các vấn đề về số liệu. Thứ ba, phát triển thị trường trái phiếu nói riêng và thị trường vốn trong nước nói chung để dần gia tăng tỷ lệ nợ trong nước trong tổng nợ công. Đây là một trong những mục tiêu gián tiếp của quản lý nợ công khi nợ trong nước cơ bản sẽ có chi phí vay nợ thấp hơn nợ nước ngoài cùng với các rủi ro đi kèm ít hơn. Có thể thấy nợ nước ngoài trong tổng nợ công luôn ở ngưỡng vượt trần (dù ít), chưa kể chi phí đi vay nước ngoài sẽ ngày càng tăng khi Việt Nam không còn là một quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thấp nữa. Hai yếu tố trên sẽ càng thúc đẩy chính phủ phát triển thị trường vốn trong nước ngày càng hoàn thiện. Thứ tư, chính phủ cần lên kế hoạch kiểm soát các khoản nợ tiềm tàng trong hoạt động quản lý nợ công càng sớm càng tốt. Những khoản nợ trong tương lai của quỹ bảo hiểm xã hội quốc gia, những khoản nợ trong dự án PPP là những ví dụ của nợ tiềm tàng, những khoản nợ mà khi tình hình kinh tế xấu đi sẽ thật sự tạo thành gánh nặng cho chính phủ nhưng lại chưa được quy định trong nợ công theo luật và từ đó là hoạt động quản lý nợ công. Thứ năm, chính phủ cần định hướng rõ hơn sự phối hợp giữa ba chính sách tài khóa, tiền tệ và quản lý nợ công trong một thể thống nhất. Nội dung phối hợp này có thể được ghi trong chiến lược quản lý nợ công, đặc biệt là đối với các tình huống phải đánh đổi mục tiêu giữa các chính sách này. Cuối cùng, nhà nước nên kiện toàn hệ thống kiểm toán đối với ngân sách trong đó trao thêm nhiều quyền hơn nữa cho kiểm toán nhà nước trong việc cảnh báo cho chính phủ những khoản chi, khoản vay có thể dẫn đến rủi ro lớn hoặc vi phạm pháp luật về quản lý nợ công. 5. Kết luận Quản lý nợ công là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến mức độ bền vững của nợ công, từ đó góp phần duy trì ổn định vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trên thế giới đã hình thành bốn mô hình quản lý nợ công dựa trên thực tiễn triển khai ở nhóm các quốc gia theo trình độ phát triển của nền kinh tế. Đó là mô hình quản lý nợ công ở các nước kém phát triển, đang phát triển, chuyển đổi và phát triển. Mỗi một mô hình sẽ có một kỹ thuật quản lý, cơ cấu bộ máy quản lý và cách thức quản lý khác nhau. Hiện tại Việt Nam đang quản lý theo mô hình các nước đang phát triển với công cụ chính là thị trường trái phiếu chính phủ, có cơ quan quản lý chuyên trách nằm trong BTC và có luật cũng như chiến lược quản lý nợ công riêng biệt. Tuy nhiên với sự phát triển của nền kinh tế, đặc biệt là thị trường tài chính thì mô hình hiện tại bộc lộ một vài bất cập. Dựa trên muc tiêu là nâng cấp mô hình lên mô hình của các nước phát triển hơn, Việt Nam cần phải tập trung vào các giải pháp liên quan đến nhân lực, thông tin và thể chế. Trong đó phát triển thị trường trái phiếu chính phủ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực liên quan đến quản lý nợ công là những giải pháp có tính quyết định. Tài liệu tham khảo [1] D.Q. Bao, The science of Management and Organization Statistical Publishing House, Hanoi, 1999 (in Vietnamese), [2] IMF, Defining the Government’s debt and deficit, Working paper, WP/15/238, 2015. [3] IMF, Revised guidelines for public debt management, IMF Policy paper, 2014. [4] WB, Government debt management: Designing debt management strategies, Debt management learning & training note, 2017. [5] E. Currie, J. Dethier and E. Togo, Institutional arrangements for Public Debt Management, World Bank Policy Research Working Paper 3021, 2003. P.X. Truong / VNU Journal of Science: Policy and Management Studies, Vol. 37, No. 1 (2021) 22-35 35 [6] E.C. Pascal, The debt office and the effective debt management functions: an institutional and operational framework, Public debt and Public Finance Working Paper, 2006. [7] H. Bohn, Tax Smoothing with Financial Instruments, American Economic Review, 80/5 (1990) pp 1217–1230. [8] J. Tobin, An Essay on the Principles of Debt Management, Fiscal and Debt Management Policies, 2 (1963), Reprinted in J. Tobin Essays in Economics, vol.1, Amsterdam: North Holland, 1971. [9] E. Togo, Coordinating Public Debt Management with Fiscal and Monetary Policies: An Analytical Framework, World Bank Policy Research Working Paper, No. 4369, 2007. [10] L. Hoogduin, B. Ozturk & P.Wierts, Public debt managers’ behavior: interactions with macro policies, DNB Working paper No.273, 2010. [11] WB, Debt management performance assessment (DeMPA) methodology, 2015. [12] R. Cabral, How strategically is public debt being managed around the globe? A survey on public debt management strategies, WB Financial advisory and Banking department report, 2015. [13] C. Aslan, A. Ajazaj & S.A. Wahidh, Study on Public debt management system and results of a survey on solutions used by debt management office, WB Financial advisory and Banking department report, 2018. [14] IMF, G-20 note: Improving public debt recording, monitoring, and reporting capacity in low and lower middle-income countries: proposed reforms, 2018. [15] A.A. Badurina, S. Svaljek, Public debt management before, during and after the crisis, Finance theory and practice, 36(1) (2012) 73 – 100. [16] I. Storkey, Sound practice, in: M. Williams and P. Brione (Eds.), Government Debt Management: New Trends and Challenge, Central Banking Publications Ltd, London, 2006, pp 300 – 325. [17] G. Wheeler, Sound Practice in Government Debt Management, The World Bank Publication, Washington D.C, 2004. doi. 10.1596/0-8213-5073-0. [18] National Treasury Management Agency, Ireland Information Memorandum 2010, National Treasury Management Agency, Dublin, 2010. [19] M. Williams, The growing responsibilities of debt management offices, in: M. Williams, P. Brione (Eds.), Government Debt Management: New Trends and Challenge, Central Banking Publications Ltd, London, 2006, pp 258 – 273. [20] H.N. Au, Public debt management in Vietnam in the international integration period (in Vietnamese), https://hcma.vn/Uploads/2018/8/8/Hoang%20Ngo c%20Au%20-%20Luan%20an%20- %20CN%20Quan%20ly%20kinh%20te.pdf, 2018 (accessed 20 August 2020). [21] T. Phung, Firmly maintaining the country’s credit rate (in Vietnamese), kien-noi-bat/tiep-tuc-giu-vung-muc-xep-hang-tin- nhiem-quoc-gia-325601.html, 2020 (accessed 21 August 2020). [22] N.T. Binh, The factors affecting the efficiency of public debt management in Vietnam (in Vietnamese), to-anh-huong-toi-hieu-qua-quan-ly-no-cong-o- viet-nam-73005.htm, 2020 (accessed 22 August 2020). [23] T. Anh, Six solutions for public management in the new context (in Vietnamese), phap-quan-ly-no-cong-trong-boi-canh-moi- 308263.html, 2019 (accessed 23 August 2020).
File đính kèm:
- cac_mo_hinh_quan_ly_no_cong_tren_the_gioi_va_ham_y_chinh_sac.pdf