Biến đổi nhận thức về đạo hiếu: Nghiên cứu so sánh giữa việt nam và Hàn Quốc
Dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa cũng như toàn cầu hóa, nhiều giá
trị gia đình ngày nay đang dần bị biến đổi, trong đó có đạo hiếu. Sự biến đổi nhận thức về đạo hiếu không
chỉ được biểu hiện ở thế hệ con cái mà còn từ chính quan niệm của các bậc cha mẹ. Thực trạng này đã và
đang diễn ra khá mạnh mẽ ở cả xã hội Việt Nam và Hàn Quốc. Vốn là hai quốc gia châu Á có nhiều nét
tương đồng về văn hóa và lịch sử trong suốt chiều dài phát triển, Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điều kiện
thuận lợi để chia sẻ, học hỏi lẫn nhau trong việc giải quyết vấn đề xã hội chung này. Tuy nhiên, hiện nay,
những nghiên cứu so sánh giữa Việt Nam và Hàn Quốc về biến đổi giá trị gia đình nói chung và biến đổi
nhận thức về đạo hiếu nói riêng vẫn còn tương đối hạn chế. Do vậy, bài viết này sẽ tổng hợp và phân tích
các nghiên cứu đi trước, so sánh các số liệu để làm nổi bật những biểu hiện cụ thể cũng như những điểm
tương đồng và khác biệt của sự biến đổi trong nhận thức về đạo hiếu của thế hệ con cái và thế hệ cha mẹ
trong xã hội Việt Nam và Hàn Quốc.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến đổi nhận thức về đạo hiếu: Nghiên cứu so sánh giữa việt nam và Hàn Quốc
1. Đặt vấn đề1 Dưới tác động của nền kinh tế thị trường sau dấu mốc 1986, Việt Nam đã và đang chuyển biến mạnh mẽ về mọi mặt. Một trong những thay đổi phải kể đến là sự biến đổi của các giá trị gia đình, trong đó nổi cộm nhất là vấn đề biến đổi nhận thức về đạo hiếu. Ở Hàn Quốc, bước sang những năm 1980 là thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển mạnh mẽ, nhiều người cũng bắt đầu cảm nhận rõ gia đình của họ đang thay đổi từ hình thái đến thiết chế cũng như các hệ giá trị. Gia đình là một tế bào thu nhỏ và hạt nhân quan trọng của xã hội. Bởi vậy, mọi sự thay * ĐT.: 84-914990281 Email: haibac86@gmail.com đổi trong xã hội đều tác động không nhỏ đến mỗi gia đình và ngược lại. Tức là, khi các hệ giá trị trong gia đình bị thay đổi, nó sẽ nhanh chóng biểu hiện ra ngoài xã hội và có thể tác động đến nhận thức của toàn xã hội theo nhiều chiều. Do vậy, để kịp thời dự báo và điều chỉnh nhận thức xã hội thì nghiên cứu về sự biến đổi các giá trị gia đình là vô cần thiết đối với cả Việt Nam và Hàn Quốc, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Nghiên cứu so sánh người Việt Nam và người Hàn Quốc về chủ đề này lại càng cần thiết hơn trong bối cảnh quan hệ hợp tác - phát triển 25 năm giữa hai quốc gia ngày càng được thắt chặt và đạt nhiều thành tựu tốt đẹp. Từ những kết quả so sánh, Việt Nam và Hàn Quốc sẽ nhìn thấy rõ những điểm tương đồng và khác biệt trong các BIẾN ĐỔI NHẬN THỨC VỀ ĐẠO HIẾU: NGHIÊN CỨU SO SÁNH GIỮA VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC Cao Thị Hải Bắc* Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Hàn Quốc, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN, Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận bài ngày 14 tháng 03 năm 2018 Chỉnh sửa ngày 31 tháng 05 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 31 tháng 05 năm 2018 Tóm tắt: Dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa cũng như toàn cầu hóa, nhiều giá trị gia đình ngày nay đang dần bị biến đổi, trong đó có đạo hiếu. Sự biến đổi nhận thức về đạo hiếu không chỉ được biểu hiện ở thế hệ con cái mà còn từ chính quan niệm của các bậc cha mẹ. Thực trạng này đã và đang diễn ra khá mạnh mẽ ở cả xã hội Việt Nam và Hàn Quốc. Vốn là hai quốc gia châu Á có nhiều nét tương đồng về văn hóa và lịch sử trong suốt chiều dài phát triển, Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi để chia sẻ, học hỏi lẫn nhau trong việc giải quyết vấn đề xã hội chung này. Tuy nhiên, hiện nay, những nghiên cứu so sánh giữa Việt Nam và Hàn Quốc về biến đổi giá trị gia đình nói chung và biến đổi nhận thức về đạo hiếu nói riêng vẫn còn tương đối hạn chế. Do vậy, bài viết này sẽ tổng hợp và phân tích các nghiên cứu đi trước, so sánh các số liệu để làm nổi bật những biểu hiện cụ thể cũng như những điểm tương đồng và khác biệt của sự biến đổi trong nhận thức về đạo hiếu của thế hệ con cái và thế hệ cha mẹ trong xã hội Việt Nam và Hàn Quốc. Từ khóa: đạo hiếu, dân chủ hóa, phụng dưỡng cha mẹ, so sánh Việt Nam và Hàn Quốc 12 C.T. H. Bắc/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 11-23 vấn đề của hai dân tộc để cùng học hỏi và giúp đỡ lẫn nhau trong việc giải quyết các vấn đề đó. Việt Nam và Hàn Quốc là hai trong nhiều quốc gia châu Á chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ tư tưởng Nho giáo, đặc biệt là tư tưởng đề cao đạo hiếu. Khổng Tử đã từng nói “Chữ Hiếu lấy việc phụng dưỡng cha mẹ làm đầu... Cha mẹ lúc còn sống phải theo lễ mà đối xử phụng sự. Cha mẹ chết phải theo lễ mà an táng, theo lễ mà cúng tế” (Khổng Tử, 2006: 127). Tư tưởng đề cao đạo hiếu này đã ngấm sâu vào mỗi người dân Việt Nam qua từng câu ca dao như: “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Người Hàn Quốc cũng luôn tâm niệm “Hiếu thuận là gốc rễ của trăm hành vi”. Ở Hàn Quốc, ngày 8 tháng 5 được coi là “ngày của bố mẹ”, được tổ chức qui mô lớn nhằm bày tỏ sự biết ơn và tôn kính đối với công ơn của bố mẹ. Vào ngày này, tất cả mọi người sẽ tìm về với bố mẹ mình, ngực cài bông hoa cẩm chướng đỏ, biểu tượng cho sự trường tồn, vĩnh cửu. Trong dịp lễ trọng đại này, người Hàn Quốc cũng thường cùng nhau hát “Bài ca mừng ngày bố mẹ” và bài “Tấm lòng của mẹ” với nội dung ca ngợi công ơn sinh thành, dưỡng dục to lớn của cha mẹ cũng như những lời răn dạy con cái luôn luôn phải ghi nhớ và đền đáp công ơn đó (Lee Gi Tae, 2013: 87- 88). Gần giống với Hàn Quốc, trong ngày lễ Vu Lan của người Việt, những ai còn mẹ thì cài bông hồng đỏ, những ai mất mẹ thì cài bông hồng trắng để tưởng nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Như vậy, từ xa xưa, đạo hiếu đã trở thành một trong những tư tưởng đạo đức quan trọng nhất trong cả xã hội Việt Nam và Hàn Quốc với những biểu hiện tương đồng như kính trọng, phụng dưỡng cha mẹ lúc ... ư Việt Nam. Theo khảo sát năm 2004 của tổng cục thống kê Hàn Quốc, hình thái gia đình của những người già trên 65 tuổi đã biến đổi mạnh mẽ từ năm 1980 đến năm 2000. Cụ thể, năm 1980 có 84,9% NCT trên 65 sống cùng con cái thì đến năm 2000, tỷ lệ này chỉ còn là 53,8% (dẫn theo Park Kyung Suk, 2008: 173). Một điều tra khác của Cục thống kê Hàn Quốc năm 2011 cho biết tỷ lệ người già trên 65 tuổi không sống cùng con cái trưởng thành chiếm 63,8% ở khu vực đô thị và 79,1% ở khu vực nông thôn. Lý do không sống cùng con cái khá đa dạng. Trong đó, lý do nói rằng cảm thấy thoải mái hơn khi sống riêng với con cái chiếm tỷ lệ cao nhất với 38% ở khu vực đô thị. Trái lại, ở nông thôn, lý do không sống chung vì con cái phải đi học hay đi làm xa nhà chiếm tỷ lệ cao nhất với 30%. Tiếp đến là lý do cho rằng sợ trở thành gánh nặng cho con cái chiếm tỷ lệ 22% ở đô thị và 20% ở nông thôn (dẫn theo Eun Ki Su, 2013: 76). Từ những số liệu khảo sát nêu trên có thể thấy ở cả xã hội Việt Nam và Hàn Quốc ngày nay đang xuất hiện ngày càng nhiều trường hợp con cái sống riêng, không sống cùng với cha mẹ. Có thể nói đây là một trong những yếu tố dẫn đến sự biến đổi trong cách thức thể hiện đạo hiếu với cha mẹ. Tuy nhiên, trong khi các bậc cha mẹ người Việt có xu hướng muốn sống chung cùng con cái rõ nét hơn (51,5%) thì các bậc cha mẹ người Hàn lại có xu hướng muốn sống độc lập với con cái nhiều hơn (63,8% ở đô thị và 79,1% ở nông thôn). Đáng chú ý là trong số các lý do không muốn sống chung cùng 20 C.T. H. Bắc/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 11-23 con cái của cha mẹ người Hàn thì ngoài lý do có khả năng tự chủ về kinh tế, sức khỏe nên muốn được sống độc lập, thoải mái như một số cha mẹ thành thị ở Việt Nam thì các lý do quan trọng khác được đưa ra là vì con đi học, đi làm xa và sợ trở thành gánh nặng cho con. Điều này có nghĩa là trong thái độ không muốn sống chung cùng con cái của cha mẹ người Hàn đang ẩn chứa một tâm lý buộc phải chấp nhận với sự thay đổi của điều kiện xã hội công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hay nói cách khác, sự biến đổi nhận thức về đạo hiếu, cụ thể với việc sống chung hay sống riêng cùng con cái của các bậc cha mẹ người Hàn chịu sự tác động sâu sắc của hoàn cảnh xã hội. Biến đổi thứ hai trong nhận thức của cha mẹ về đạo hiếu là thái độ dân chủ với con cái. Nhìn ở góc độ nào đó, dân chủ thái quá chính là một trong những yếu tố khiến con cái thể hiện đạo hiếu một cách lỏng lẻo hơn. Như đã đề cập ở phần đặt vấn đề, theo quan niệm Nho giáo về đạo hiếu, “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” hay “Trên bảo dưới phải nghe” là những nguyên tắc bất biến trong xã hội. Tức là, mọi hành vi trái lời cha mẹ đều bị coi là bất hiếu. Do vậy, trong xã hội phong kiến, cha mẹ luôn giữ một thái độ quyền uy và độc đoán với con cái. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại ngày nay, chủ nghĩa cá nhân đang được đề cao hơn bao giờ hết kéo theo những những thay đổi trong nhận thức của nhiều bậc cha mẹ về tính dân chủ và cách thức thể hiện chữ hiếu. Nghiên cứu năm 2016 về “Biến đổi tích cực của đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thọ và Lê Công Sự đã nhìn nhận vấn đề tính dân chủ giữa cha mẹ và con cái trong các gia đình Việt Nam hiện đại ở góc độ tích cực. Với sự xuất hiện ngày càng phổ biến của mô hình gia đình hạt nhân và sự đề cao chủ nghĩa cá nhân, nhiều vấn đề trong gia đình Việt Nam ngày nay đều được giải quyết trên nguyên tắc dân chủ có sự tham gia đóng góp ý kiến của tất cả các thành viên trong gia đình. Thậm chí, nhiều bậc cha mẹ sẵn sàng tôn trọng nguyện vọng sống riêng, tự lập của các con đã trưởng thành nhưng chưa kết hôn. Một biểu hiện dễ thấy khác của tính dân chủ trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái là thái độ của cha mẹ với việc hôn nhân và sinh sản của các con. Thay vì tư tưởng áp đặt hôn nhân và gây áp lực cho con cái phải sinh nhiều con, đặc biệt là con trai thì ngày nay nhiều bậc cha mẹ để con cái tự quyết định các vấn đề riêng của mình mà chỉ đóng vai trò là người tham gia, góp ý (Nguyễn Thị Thọ và Lê Công Sự, 2016: 76-77). Mặt khác, tác giả Hoàng Thúc Lân (2014) lại nhìn vấn đề dân chủ hóa giữa cha mẹ và con cái trong xã hội Việt Nam ngày nay như một hồi chuông đáng báo động. Sự dân chủ thái quá đã khiến cho một bộ phận lớp trẻ Việt Nam hình thành và phát triển lối sống vị kỷ, thờ ơ, hời hợt, thiếu quan tâm đến cha mẹ. Nhiều người ỉ lại vào các phương tiện truyền thông như điện thoại, internet để hỏi thăm cha mẹ thay vì trò chuyện mặt giáp mặt. Thái độ chấp nhận dân chủ hóa thái quá này của cha mẹ đã góp phần làm tăng nguy cơ đẩy họ vào sự cô đơn, trống trải (Hoàng Thúc Lân, 2014: 74). Thực trạng này cũng đã và đang xảy ra trong xã hội Hàn Quốc. Theo điều tra khảo sát của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch Hàn Quốc năm 2013, trái với quan hệ mang tính quyền uy rõ rệt giữa nhà tuyển dụng và người lao động, quan hệ giữa cha mẹ và con cái được coi là mối quan hệ mang tính dân chủ nhất trong xã hội. 65,7% người được hỏi đồng ý với nhận định này, trong khi đó, số người trả lời rằng quan hệ giữa cha mẹ và con cái ở Hàn Quốc thể hiện rõ tính quyền uy chỉ chiếm 34,3% (남형도, 2014: 44-45). Đến đây, có thể tóm tắt những điểm tương đồng và khác biệt trong nhận thức về đạo hiếu của cha mẹ người Việt Nam và Hàn Quốc trong bảng 2 như sau. 21Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 11-23 Bảng 2. So sánh biến đổi nhận thức về đạo hiếu của cha mẹ người Việt Nam và Hàn Quốc Việt Nam Hàn Quốc Tương đồng Truyền thống - Con cái phải sống chung cùng cha mẹ (đặc biệt là con trai trưởng) - Quan hệ cha mẹ - con cái mang tính quyền uy + Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy + Trên bảo dưới phải nghe Hiện đại - Quan niệm về sống chung hay sống riêng bớt khắt khe hơn, thậm chí nhiều bậc cha mẹ thích sống riêng. - Quan hệ cha mẹ - con cái dân chủ hơn Khác biệt Xu hướng truyền thống muốn sống chung cùng con cái rõ nét hơn Xu hướng hiện đại muốn sống riêng cùng con cái rõ nét hơn Không thể phủ nhận rằng tốc độ phát triển nhanh và mạnh của nền kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, toàn cầu hóa đã khiến cho nhiều giá trị gia đình, trong đó có giá trị đạo hiếu bị biến đổi. Ở các nước đã phát triển như Hàn Quốc, các biểu hiện biến đổi này đã được cảm nhận rõ từ những năm 1980 trở lại đây. Còn ở Việt Nam, mặc dù chính sách mở cửa đã bắt đầu từ năm 1986 nhưng qui mô và tốc độ phát triển vẫn đi sau Hàn Quốc. Do vậy, sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại vẫn đang là xu hướng phát triển dễ nhận thấy nhất trong xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, như một qui luật tất yếu, khi xã hội càng phát triển, yếu tố truyền thống càng có nguy cơ bị mai một nếu chúng ta không có ý thức bảo tồn. Khoảng gần 10 năm trở lại đây kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, tốc độ phát triển kinh tế nhanh hơn kéo theo nhiều giá trị truyền thống bị biến đổi rõ hơn. Trong đó, một số biến đổi trong nhận thức về đạo hiếu đã xuất hiện và bắt đầu thu hút được sự quan tâm của ngôn luận cũng như các học giả. Vậy, vấn đề cấp thiết đang được để mở cho toàn xã hội là phải làm gì để khắc phục những biến đổi tiêu cực và phát huy những biến đổi tích cực một cách kịp thời và hiệu quả trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau giữa các quốc gia có nhiều đặc điểm tương đồng. 4. Kết luận Bài viết đã trả lời được đầy đủ các câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra. Bằng phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu của nhiều nghiên cứu đi trước, tác giả bài viết đã chứng minh được một thực trạng đang diễn ra ở cả xã hội Việt Nam và Hàn Quốc. Đó là sự biến đổi trong nhận thức về đạo hiếu của người Việt Nam và người Hàn Quốc. Sự biến đổi này không chỉ được biểu hiện ở thế hệ con cái mà còn xuất phát từ nhận thức của các bậc cha mẹ. Về phía con cái, điểm tương đồng giữa người Việt và người Hàn là sự biến đổi từ thái độ trách nhiệm đương nhiên cùng cảm giác vinh dự thành thái độ trốn tránh trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng ông bà, cha mẹ và cảm giác gánh nặng khi phải phụng dưỡng cha mẹ. Về phía cha mẹ, sự biến đổi từ thái độ quyền uy hay quan niệm phải sống chung với con cái thành thái độ dân chủ và quan niệm cởi mở muốn sống độc lập với con cái cũng là điểm tương đồng giữa cha mẹ người Việt và người Hàn. Điểm khác biệt chủ yếu nằm ở mức độ biểu hiện của những biến đổi này. Theo đó, càng là những quốc gia có tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển nhanh và mạnh như Hàn Quốc, mức độ biểu hiện của những biến đổi trong nhận thức về đạo hiếu càng rõ nét và nghiêm trọng hơn. Ngoài ra, lối sống 22 C.T. H. Bắc/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 11-23 dân chủ và chủ nghĩa đề cao cá nhân cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thực trạng này. Việt Nam là quốc gia đang phát triển đi sau Hàn Quốc nên mức độ biểu hiện của những biến đổi trên đang ở giai đoạn manh nha. Tuy nhiên, với nhiều nét tương đồng về văn hóa cũng như lịch sử phát triển xã hội, Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi để giao lưu, học hỏi lẫn nhau trong việc giải quyết các vấn đề xã hội chung, trong đó có vấn đề tìm giải pháp hiệu quả nâng cao nhận thức đúng đắn về đạo hiếu trong thời hiện đại. Tài liệu tham khảo Tiếng Việt Nguyễn Quốc Anh (2016). Chăm sóc sức khỏe và chăm sóc dài hạn cho người cao tuổi. Tạp chí Dân số phát triển, 1(177). Cao Thị Hải Bắc (2017). Một vài so sánh về đặc điểm vốn xã hội của người Việt Nam và người Hàn Quốc. Tạp chí Đông Bắc Á, 2(192), 63-74. Vũ Tuấn Huy (2006). Những vấn đề của gia đình Việt Nam trong quá trình biến đổi xã hội theo xu hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Tạp chí Xã hội học, 2(94), 13-20. Phương Hương (2015). Chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng: Một mô hình phù hợp và hiệu quả. Tạp chí Dân số phát triển, 7(171), 31-37. Kim Choong Soon (2016). Hàn Quốc - Văn hóa, con người. Hà Nội: Nxb Phụ nữ. Hoàng Thúc Lân (2014). Đạo hiếu trong gia đình Việt Nam hiện nay. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, 10(83), 70-75. Lee Gi Tae (2013). Tìm hiểu văn hóa Hàn Quốc. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Trần Thị Thu Lương (2016). Đặc trưng văn hóa Việt Nam, Hàn Quốc - Tương đồng và khác biệt. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia. Nguyễn Hữu Minh (2015). Gia đình Việt Nam sau 30 năm đổi mới. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, 11(96), 51-59. Khổng Tử (2006). Tứ thư. tr.127. Tổng cục Thống kê (2006). Điều tra gia đình Việt Nam. tr. 38-39. Tổng cục Thống kê (2014). Điều tra dân số và nhà ở giữa kì tháng 1 năm 2014. Nguyễn Quý Thanh, Cao Thị Hải Bắc (2012). Quan hệ xã hội và vốn xã hội: nghiên cứu so sánh Việt Nam và Hàn Quốc. Tạp chí Xã hội học, 3(119), 35-45. Nguyễn Quý Thanh (2005). Sự giao thoa giữa vốn xã hội với các giao dịch kinh tế trong gia đình, So sánh gia đình Việt Nam và gia đình Hàn Quốc. Tạp chí Xã hội học, 2, 108-121. Nguyễn Thị Thắm (2016). Xã hội Hàn Quốc - Truyền thống và Biến đổi. Hà Nội: Nxb Giáo dục Việt Nam. Hoàng Bá Thịnh (2008). Một số vấn đề về giới và gia đình Việt Nam trong quá trình phát triển. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Các vấn đề văn hóa xã hội của Việt Nam và Hàn Quốc đương đại (tr.19-34), tháng 8 năm 2008. Hà Nội. Trần Thị Minh Thi (2016). Hỗ trợ kinh tế giữa người cao tuổi và con cái trong gia đình Việt Nam hiện nay. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(109), 43-54. Nguyễn Thị Thọ, Lê Công Sự (2016). Biến đổi tích cực của đạo hiếu ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, 10(107), 74-77. Nguyễn Thị Mỹ Trang, Trần Bích Hằng (2012). Nhận thức của cán bộ lãnh đạo quản lý về chăm sóc người cao tuổi trong gia đình. Tạp chí Dân số phát triển, 11(140), 21-27. Lâm Ngọc Như Trúc (2008). Công nghiệp hóa và sự biến đổi của gia đình Việt Nam. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần III. Hà Nội, ngày 5 tháng 12 năm 2008. Lê Ngọc Văn (2004). Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với gia đình Việt Nam hiện nay. Hà Nội: Nxb Ủy ban dân số gia đình và trẻ em. Tiếng Hàn 김유경 외 (2015), 가족형태 다변화에 따른 부양체계 변화전망과 공사 간 부양분담 방안. 한국보건사회연구원. 황정미 (2014). 가족.국가.재생산, 가족과 친밀성의 사회학. 서울: 다산출판사. 김혜영 (2014). 가족의 위기와 가족정책, 가족과 친밀성의 사회학. 서울: 다산출판사. 김대균 (2013). 2013 한국인의 의식.가치관 조사 결과 발표. 문화체육관광부, 38쪽. 이선이 (2014). 현대사회의 부모 – 자녀 관계, 가족과 친밀성의 사회학. 서울: 다산출판사. 박혜영 (2014). 가족과 패미니즘, 가족과 친밀성의 사회학. 서울: 다산출판사. 강이수 (2014). 일-생활 균형과 가족, 가족과 친밀성의 사회학. 서울: 다산출판사. 남형도 (2014). 한국인의 가치관조사를 통해 알아 본 대한민국의 변화방향. 위클리공감, 239호, 39-44. 2014 인구주택총조사. 한국 통계청. 2015 인구주택총조사. 한국 통계청. 23Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 11-23 Tiếng Anh Park Kyeong Suk (2008). Korea women’s life- course and self perceptions: Isomorphism of “Family centeredness”. International Conference Contemporary Vietnam and Republic of Korea - A Glimpse from both sides (pp.197-224), August 2008. Hoa Binh, Vietnam. Eun Ki Soo (2008). Changing family value in Korea from a comparative perspective. International Conference Contemporary Vietnam and Republic of Korea - A Glimpse from both sides (pp.59-84), August 2008. Hoa Binh, Vietnam. CHANGES OF FILIAL PIETY: A COMPARATIVE STUDY OF VIETNAMESE AND KOREAN SOCIETIES Cao Thi Hai Bac Faculty of Korean Language and Culture, VNU University of Languages and International Studies, Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Abstract: Under the influence of the industrialization and globalization era, many family values are being transformed, including the value of filial piety. Conceptual transformation of filial piety not only occurs among offsprings, but also in the minds of parents, which has been relatively prevalent in both Vietnamese and Korean societies with so many similarities in culture and history of social development. Such similarities enable the two countries to share and learn from each other in solving social problems. However, comparative studies between Vietnam and Korea on the change of family values in general and the changing perceptions of piety in particular still have many gaps. Realizing this drawback, this paper will synthesize and analyze existing studies as well as comparing data to show specific manifestations, similarities and differences of conceptual changes in filial piety among Vietnamese and Korean children and parents. Keywords: filial piety, democracy, caring for parents, comparative study of Vietnamese and Korean
File đính kèm:
- bien_doi_nhan_thuc_ve_dao_hieu_nghien_cuu_so_sanh_giua_viet.pdf