Bảo đảm pháp lý quyền con người trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Sau hơn 40 năm trở thành thành viên chính
thức của Liên Hiệp quốc cùng với việc ký kết tham
gia và thực hiện các công ước quốc tế về quyền
con người, Việt Nam đã giành được nhiều thành
tựu đáng kể trong vấn đề bảo vệ, thúc đẩy và phát
triển quyền con người trên nhiều lĩnh vực. Tuy
nhiên, mặc dù vậy, những khiếm khuyết trong quá
trình vận dụng pháp luật để quản lý nhà nước và
xã hội gây ảnh hưởng đến nhân quyền là không thể
không có. Những năm qua, tình hình an ninh trật
tự, an toàn xã hội diễn biến khá phức tạp với nhiều
vụ án hình sự gây xôn xao dư luận, cùng với đó là
những yếu kém trong quá trình hoạt động của một
số cơ quan nhà nước gây ảnh hưởng tiêu cực đến
đời sống và quyền lợi của nhân dân được đưa ra
trước ánh sáng. Do vậy, với mục tiêu xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân, nước ta cần phải tiếp
tục xây dựng và thi hành nhiều chính sách, pháp
luật thiết thực để đảm bảo pháp lý cho việc thực
hiện quyền con người.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái lược về quyền con người - giá trị
chung của nhân loại
Quyền con người hay nhân quyền được cho
là kết quả của quá trình đấu tranh gian khổ, lâu dài
trong lịch sử vì sự tự do, lẽ công bằng và tiến bộ.
Đồng thời, ý thức về quyền và thực hiện quyền con
người đã gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội
loài người và giải phóng con người qua các hình
thái kinh tế - xã hội và các giai đoạn đấu tranh
giai cấp. Trong thông điệp nhân ngày Quyền con
người thế giới năm 1977, Kofi Annan từng phát
biểu: “Quyền con người là giá trị chung của mọi
nền văn hóa, là người bạn của mọi quốc gia”. Tuy
nhiên, quyền con người là một vấn đề mang tính
phức tạp ngay từ cách đưa ra định nghĩa về nội
hàm của nó. Bởi lẽ, không chỉ tồn tại dưới hình
thức một thuật ngữ trong khoa học pháp lý mà nó
còn được nghiên cứu rộng rãi trong nhiều lĩnh vực
khác như: chính trị học, triết học, văn hóa học, xã
hội học dưới những mức độ khác nhau. Chính
vì thế, có rất nhiều khái niệm về quyền con người
là một điều không khó hiểu.
Ở bình diện quốc tế, khái niệm “quyền con
người” thường được các học giả, nhà nghiên cứu
xây dựng dựa trên định nghĩa của Văn phòng Cao
ủy Liên Hiệp quốc về quyền con người (OHCHR),
theo đó “quyền con người là những đảm bảo pháp
lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các
nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc
làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép
và tự do cơ bản của con người” [11, tr. 10]. Ngoài
ra, trong quyển “A Basic Handbook for UN Staff”
của OHCHR cũng đưa ra một khái niệm khác v
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo đảm pháp lý quyền con người trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
112 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 37 (04-2019) BẢO ĐẢM PHÁP LÝ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM y Nguyễn Quang Thành(*) Tóm tắt Bài viết tập trung phân tích một số vấn đề có liên quan đến quyền con người, bảo đảm pháp lý quyền con người cũng như xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, chỉ ra được mối liên hệ trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền và đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện quyền con người, đồng thời đề xuất một số kiến nghị. Từ khóa: Quyền con người, nhà nước pháp quyền, đảm bảo pháp lý. 1. Đặt vấn đề Sau hơn 40 năm trở thành thành viên chính thức của Liên Hiệp quốc cùng với việc ký kết tham gia và thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người, Việt Nam đã giành được nhiều thành tựu đáng kể trong vấn đề bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, mặc dù vậy, những khiếm khuyết trong quá trình vận dụng pháp luật để quản lý nhà nước và xã hội gây ảnh hưởng đến nhân quyền là không thể không có. Những năm qua, tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội diễn biến khá phức tạp với nhiều vụ án hình sự gây xôn xao dư luận, cùng với đó là những yếu kém trong quá trình hoạt động của một số cơ quan nhà nước gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống và quyền lợi của nhân dân được đưa ra trước ánh sáng. Do vậy, với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, nước ta cần phải tiếp tục xây dựng và thi hành nhiều chính sách, pháp luật thiết thực để đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện quyền con người. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái lược về quyền con người - giá trị chung của nhân loại Quyền con người hay nhân quyền được cho là kết quả của quá trình đấu tranh gian khổ, lâu dài trong lịch sử vì sự tự do, lẽ công bằng và tiến bộ. Đồng thời, ý thức về quyền và thực hiện quyền con người đã gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài người và giải phóng con người qua các hình thái kinh tế - xã hội và các giai đoạn đấu tranh giai cấp. Trong thông điệp nhân ngày Quyền con người thế giới năm 1977, Kofi Annan từng phát biểu: “Quyền con người là giá trị chung của mọi nền văn hóa, là người bạn của mọi quốc gia”. Tuy nhiên, quyền con người là một vấn đề mang tính phức tạp ngay từ cách đưa ra định nghĩa về nội hàm của nó. Bởi lẽ, không chỉ tồn tại dưới hình thức một thuật ngữ trong khoa học pháp lý mà nó còn được nghiên cứu rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khác như: chính trị học, triết học, văn hóa học, xã hội học dưới những mức độ khác nhau. Chính vì thế, có rất nhiều khái niệm về quyền con người là một điều không khó hiểu. Ở bình diện quốc tế, khái niệm “quyền con người” thường được các học giả, nhà nghiên cứu xây dựng dựa trên định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp quốc về quyền con người (OHCHR), theo đó “quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [11, tr. 10]. Ngoài ra, trong quyển “A Basic Handbook for UN Staff” của OHCHR cũng đưa ra một khái niệm khác về quyền con người. Theo khái niệm này thì quyền con người được hiểu chung là những quyền thuộc về con người. Khái niệm quyền con người thể hiện ở việc mọi cá nhân con người đều có quyền hưởng những quyền của mình mà không có sự phân biệt về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị, dân tộc hoặc nguồn gốc xã hội, tài sản, sự sinh ra hoặc những quy chế khác [10, tr. 2]. Ở Việt Nam, khái niệm “quyền con người” cũng đã được nhiều chuyên gia, cơ quan nghiên cứu nhằm đặt nền tảng bước đầu trong việc tìm hiểu về vấn đề này. Theo Nguyễn Đăng Dung và nhóm tác giả, quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự (*) Trường Chính trị Đồng Tháp. 113 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 37 (04-2019) nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế [2, tr. 45-46]. Ngoài ra, tác giả Hoàng Thị Kim Quế có sự lý giải về bản chất của quyền con người khi cho rằng đó là những đặc quyền mà do tự nhiên, tạo hóa sinh ra cho con người, là khả năng hoạt động một cách có ý thức, từ chối hoặc yêu cầu, giành lấy những gì đó, nhất là nhu cầu tự bảo vệ [16, tr. 19]. Từ những lý giải trên cho thấy mặc dù được thể hiện dưới những hình thức câu chữ khác nhau nhưng tựu trung lại, quyền con người là những giá trị cơ bản, bẩm sinh và vốn có thuộc về mỗi người, dù họ mang hay không mang quốc tịch, thuộc về chủng tộc, màu da, giới tính hay ngôn ngữ nào. Đây được xem là chuẩn mực chung được đại đa số cộng đồng thế giới thừa nhận để bảo vệ nhân phẩm, tạo điều kiện và môi trường phát triển thuận lợi cho mỗi cá nhân được pháp luật quốc gia cũng như quốc tế ghi nhận và bảo đảm. Mặ ... không khó hiểu. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, đại đa số nhà nghiên cứu đều thống nhất một số tiêu chí sau về nhà nước pháp quyền, đó là: (i) Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước gắn liền với một giai cấp nhất định trong lịch sử, mà đó là một hiện tượng chính trị - pháp lý, là cách thức tổ chức và vận hành quyền lực chính trị, bảo đảm cho mọi tổ chức, hoạt động của nhà nước đều tuân theo quy định của pháp luật, thực hiện quản lý xã hội theo pháp luật. (ii) Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật do nhà nước đặt ra nhưng nhà nước cũng phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật, trong trường hợp này pháp luật phải thực sự trở thành công cụ để kiểm soát và giới hạn quyền lực nhà nước. (iii) Nhà nước pháp quyền là nhà nước xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn thiện, kịp thời phản ánh được xu thế vận động và phát triển của đời sống, phù hợp với lẽ công bằng, nhân đạo và thể hiện được những phẩm giá cao quý của con người, có các biện pháp nhằm đảm bảo về mọi mặt đối với các quyền con người, quyền công dân [8, tr. 59]. Như vậy, có thể thấy rằng việc xây dựng nhà nước pháp quyền có mối quan hệ mật thiết với đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện quyền con người nói chung và quyền công dân nói riêng. Nhà nước pháp quyền với hệ thống pháp luật hoàn thiện và cơ chế thực thi pháp luật phù hợp là điều kiện tiền đề để hiện thực hóa quyền con người. Ngược lại, quyền và tự do dân chủ của con người được mở rộng, đời sống trật tự và an toàn xã hội được ổn định chính là nền tảng của một nhà nước phát triển, thịnh vượng trong tương lai. 2.4. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn liền với đảm bảo pháp lý quyền con người Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng những quan điểm về Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Ngay từ năm 1919, trong “Bản yêu sách của Nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Versailles, Người đã yêu cầu phải cải cách nền pháp lý ở Đông Dương, “thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”. Cùng với nội dung quan trọng trên, trong bản yêu sách này Nguyễn Ái Quốc còn nhắc đến một số quyền tự do cơ bản như: tự do báo chí và tự do ngôn luận; tự do lập hội và hội họp; tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; tự do học tập... Những điều này đã cho thấy ở Hồ Chí Minh đã hình thành một quan điểm hoàn chỉnh về đòi hỏi quản lý xã hội bằng công cụ pháp luật và đảm bảo được các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân trong một nhà nước thượng tôn pháp luật. Đến khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời thì những ý tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền từng bước được hiện thực hóa. Ngày 03/9/1945, Chính phủ lâm thời đã họp phiên đầu tiên, thảo luận và đề ra sáu vấn đề cấp bách của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Một trong số đó là tổ chức sớm cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, soạn thảo Hiến pháp dân chủ. Người nhận định: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ”. Sau khi cuộc Tổng tuyển cử tự do được diễn ra, Chính phủ liên hiệp kháng chiến được thành lập, tại Kỳ họp thứ hai (ngày 09/11/1946), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Trong hoàn cảnh lịch sử đầy khó khăn và khắc nghiệt, quan hệ mất - còn của chính quyền nhân dân non trẻ, giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm tấn công từ mọi phía, Hiến pháp năm 1946 đã trở thành một công cụ đặc biệt quan trọng và có hiệu lực nhằm bảo vệ nền độc lập dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng cũng như thực hiện quyền lực nhân dân, là cơ sở vững chắc nhằm ghi nhận và thực hiện quyền con người, quyền công dân ở một quốc gia độc lập. Mặc dù bản Hiến pháp chỉ có 70 điều nhưng đã dành cho việc quy định quyền và nghĩa vụ của công dân đến 18 điều (từ Điều thứ 4 đến Điều thứ 21), tức là chiếm hơn một phần tư số điều trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất này. Lần đầu tiên sau những biến cố lịch sử, người dân Việt Nam mới có thể dõng dạc khẳng định: “Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. (Điều 1). 118 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 37 (04-2019) Đặc biệt, vào năm 1994, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “nhà nước pháp quyền”. Trong văn kiện của Hội nghị này có đề ra nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân như sau: “Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [4]. Cùng với việc ghi nhận về quan điểm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, văn kiện cũng đã nhấn mạnh đến việc thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và cũng là bản chất tốt đẹp của nhà nước ta, bảo về quyền con người, các quyền cơ bản của công dân đã ghi trong Hiến pháp như quyền sở hữu, quyền sử dụng tư liệu sản xuất, quyền tự do kinh doanh hợp pháp; quyền được tự do thảo luận, tranh luận, phát biểu các ý kiến nhằm xây dựng đất nước... Trải qua những bước phát triển nhất định ở các kỳ đại hội Đảng trước đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng ta đã có những bổ sung, phát triển lý luận, làm sâu sắc thêm những quan điểm về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các văn kiện trước đó, đáp ứng đòi hỏi của tình hình thực tiễn đất nước thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới là cùng với việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị thì cần phải đẩy mạnh công tác bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân [5]. Như vậy, có thể nhận thấy, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tiến hành song song, đồng thời cùng với việc kiến tạo một hệ thống đảm bảo pháp lý cho việc thực hiện quyền con người ở nước ta. Điều này cho thấy, xây dựng Nhà nước pháp quyền là điều kiện cần thiết, mang tính nền tảng để góp phần thúc đẩy việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của công dân. Trong thế giới luôn vận động và biến đổi không ngừng như hiện nay, tình hình trong nước và quốc tế vừa có những cơ hội nhưng cũng không phải không có thách thức, do đó, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn với đảm bảo pháp lý cho thực hiện quyền con người thiết nghĩ cần được tiến hành đồng bộ một số giải pháp sau: Một là, xây dựng hoàn thiện cơ sở pháp lý đảm bảo quyền con người. Dựa trên nền tảng Hiến pháp năm 2013, văn kiện pháp lý có giá trị tối cao trong hệ thống pháp luật, các cơ quan có thẩm quyền cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để cụ thể hóa các quy định trong Hiến pháp về các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đồng thời, tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Trong những năm qua, để thi hành Hiến pháp năm 2013, hàng loạt các Luật, Bộ luật được rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới nhằm cụ thể hóa các quy định về quyền con người trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội như: Luật Đất đai năm 2013, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, Luật Trẻ em năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật Báo chí năm 2016... Thời gian tới, các nhà lập pháp cần tiếp tục nghiên cứu, ban hành các văn bản quy định cụ thể hơn về quyền con người đã được ghi nhận như quyền biểu tình, quyền của người chuyển đổi giới tính (chỉ mới được ghi nhận tại Điều 37 Bộ luật Dân sự năm 2015 nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể)... Hai là, cần tiếp tục tuyên truyền, giáo dục pháp luật đến mọi tầng lớp nhân dân bằng các hình thức đa dạng, phong phú và thu hút. Mặc dù chúng ta đã có một hệ thống pháp luật về quyền con người nhưng nếu như các quy định ấy không đi vào cuộc sống, hay nói cách khác, người dân không có thái độ và kỹ năng để xây dựng một xã hội mà trong đó mọi người đều có được hiểu biết nhất định và vận dụng thành thạo những tiêu chuẩn luật pháp về nhân quyền thì pháp luật cũng chỉ là những con chữ vô nghĩa. Đặc biệt, cần phải quán triệt và hiện thực hóa hai nguyên tắc pháp luật cơ 119 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 37 (04-2019) bản về đảm bảo quyền con người, đó là (i) cá nhân được làm tất cả trừ những điều pháp luật cấm và (ii) cơ quan, cán bộ nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Ba là, xây dựng và thực hiện các chính sách phù hợp đối với nhóm người yếu thế trong xã hội. Mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền chính là tạo dựng một tổ chức nhà nước có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các phẩm giá cao quý của con người. Do vậy, đối với những nhóm người yếu thế trong xã hội như phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người đồng tính và chuyển giới... họ cần có những sự hỗ trợ, quan tâm đặc biệt hơn để có điều kiện phát triển với những người khác trong xã hội. Bốn là, cần phải từng bước hình thành cơ quan nhân quyền quốc gia. Bảo vệ, phát triển nhân quyền là một yêu cầu khách quan để đảm bảo sự tồn tại và phát triển toàn diện của con người. Và để làm được điều đó cần phải có một cơ quan với chức năng và nhiệm vụ thống nhất, toàn diện đảm đương. Với chức năng và nhiệm vụ do luật định, cơ quan nhân quyền quốc gia sẽ là một thiết chế hữu ích giúp nhà nước giải quyết được những khó khăn, vướng mắc thông qua việc tư vấn, trợ giúp độc lập, khách quan các vấn đề liên quan đến nhân quyền. 3. Kết luận Trong công cuộc đổi mới đất nước với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, bên cạnh nhu cầu giữ vững ổn định chính trị trong nước, tập trung các nguồn tiềm lực để phát triển kinh tế - xã hội thì vấn đề nâng cao, bảo đảm và phát huy giá trị các quyền con người thiết nghĩ là một trong những nội dung trọng tâm và cần thiết mà Đảng và Nhà nước cần thực hiện. Trong đó, cần có những chính sách thiết thực nhằm cải thiện đời sống nhân dân trên tất cả các mặt, đặc biệt là đồng bào ở vùng kinh tế khó khăn, biên cương và hải đảo xa xôi; ngoài ra, nghiên cứu và hoàn thiện vấn đề đảm bảo pháp lý về quyền con người thông qua hệ thống pháp luật quốc gia cũng được xem là hoạt động cần hướng đến trong các năm tiếp theo để mọi người có thể thụ hưởng quyền của mình một cách hợp lý và hợp pháp. Tác giả cho rằng, để quyền con người thực sự là quyền của mọi người, cần phải có sự vận hành đồng bộ của hệ thống cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Trong đó, nhấn mạnh đến việc tiếp tục hoàn thiện và luật hóa các quyền hiến định về con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 trên cơ sở kế thừa, phát triển những quy định hiện hành. Song song đó, xây dựng và phát huy được vai trò chủ động, tích cực của các cơ quan nhà nước; thiết lập một nền hành chính tinh gọn, tận tụy phục vụ vì lợi ích của nhân dân; tiếp tục hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp trong thời gian sắp tới để hạn chế đến mức thấp nhất những vụ án oan, sai ảnh hưởng đến quyền và tự do của mọi người. Qua những phân tích, đánh giá về đảm bảo pháp lý thực hiện quyền con người trong nhiều năm qua cũng như đưa ra một số đề xuất cần thiết cho vấn đề này, tác giả hy vọng rằng trong tương lai “quyền con người thực sự là nền tảng cho sự hiện hữu và đồng tồn của nhân loại” (Kofi -Annan)./. Tài liệu tham khảo [1]. ASEAN (2007), Hiến chương Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. [2]. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng, Đặng Minh Tuấn, Nguyễn Minh Tuấn (2013), ABC về Hiến pháp (83 câu Hỏi - Đáp), NXB Tri Thức, Hà Nội. [3]. Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (Đồng chủ biên) (2011), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. [6]. Nguyễn Văn Động (2004), “Các quyền hiến định của công dân và bảo đảm pháp lý ở nước ta”, Luật học, số 1, tr. 23-26. [7]. Tường Duy Kiên, “Nền tảng thúc đẩy, bảo vệ quyền con người”, Nhân quyền Việt Nam, số 12, 2018, tr. 5. [8]. Vũ Trọng Lâm (2017), Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (Sách chuyên khảo), NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. 120 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 37 (04-2019) [9]. Liên Hợp quốc (1948), Tuyên ngôn thế giới về quyền con người. [10]. OHCHR (2000), A Basic Handbook for UN Staff, New York and Geneva. [11]. OHCHR (2006), Human Rights Training - A manual on Human Rights Training Methodology (Professional Training Series No.6), New York and Geneva. [12]. Quốc hội (2013), Hiến pháp Việt Nam. [13]. Quốc hội (2015), Bộ luật Dân sự. [14]. Quốc hội (2015), Luật Thi hành tạm giam, tạm giữ. [15]. Quốc hội (2015), Luật Trưng cầu ý dân. [16]. Hoàng Thị Kim Quế (2012), “Quyền con người, đạo đức và pháp luật”, Nhà nước và pháp luật, số 3, tr. 19-24. [17]. Chu Hồng Thanh (2012), “Hiến pháp với việc xác lập, bảo đảm quyền con người, quyền công dân”, Luật học, số 1, tr. 36-39. [18]. Đào Trí Úc, Trương Thị Hồng Hà (Đồng chủ biên) (2018), Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội. LEGALLY PROTECTING HUMAN RIGHTS IN THE LEGAL STATE OF VIET NAM SOCIALIST REPUBLIC Summary The paper focuses on analyzing theoretical issues related to human rights, legal protection of human rights as well as establishing the legal state in Vietnam Socialist Republic. Thereby, it points out relationships in establishing the legal state and legally protecting for human rights implementation, and makes relevant recommendations. Keywords: Human rights, legal state, legal protection. Ngày nhận bài: 26/11/2018; Ngày nhận lại: 14/3/2019; Ngày duyệt đăng: 28/3/2019.
File đính kèm:
- bao_dam_phap_ly_quyen_con_nguoi_trong_nha_nuoc_phap_quyen_xa.pdf