Bài giảng Văn học phương Tây

CHƯƠNG 1:KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ NỀN VĂN HÓA CỔ ĐẠI HI LẠP

- Văn học cổ đại Hi Lạp từ lâu đã trở thành một giá trị quý giá phổ biến của toàn nhân loại . Hiếm có một thần thoại của dân tộc nào trên thế giới lại luôn luôn tái sinh, thường xuyên có mặt trong đời sống thường ngày suốt từ đò đến nay như thần thoại HL. Ngay từ thời cổ đại, thần thoại Hi Lạp đã “hóa thân” thành thần thoại La Mã, lại còn làm nền tảng và cảm hứng cho sử thi, bi kịch và nghệ thuật tạo hình. Do công “tái chế biến» của văn hóa La Mã, ngày nay các nhân vật thần thoại Hi Lạp tồn tại với hai tên gọi khác nhau. Văn học La Mã cũng có sáng tạo góp thêm một số sự tích, truyền thuyết.

- Thần thoại là nền tảng đầu tiên của nền văn học cổ đại Hi Lạp .

- Sử thi (anh hùng ca) là thể loại rực rỡ một đi không trở lại nhưng tấm gương của nó còn soi sáng mãi đến ngày nay .

- Bi kịch cổ đại là cơ sở mẫu mực sẽ tiếp tục góp phần xây dựng kịch châu Âu suốt từ thời đại Phục Hưng trở về sau .

 

Bài giảng Văn học phương Tây trang 1

Trang 1

Bài giảng Văn học phương Tây trang 2

Trang 2

Bài giảng Văn học phương Tây trang 3

Trang 3

Bài giảng Văn học phương Tây trang 4

Trang 4

Bài giảng Văn học phương Tây trang 5

Trang 5

Bài giảng Văn học phương Tây trang 6

Trang 6

Bài giảng Văn học phương Tây trang 7

Trang 7

Bài giảng Văn học phương Tây trang 8

Trang 8

Bài giảng Văn học phương Tây trang 9

Trang 9

Bài giảng Văn học phương Tây trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

ppt 95 trang Trúc Khang 08/01/2024 6600
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Văn học phương Tây", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng Văn học phương Tây

Bài giảng Văn học phương Tây
TRƯỜNG CĐ PHÁT THANH TRUYỀN HÌNH II 
VĂN HỌC 
PHƯƠNG TÂY 
SINH VIÊN THỰC HIỆN : 
PHẦN I 
VĂN HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 
PHẦN II 
VĂN HỌC PHỤC HƯNG 
PHẦN III 
VĂN HỌC CỔ ĐIỂN 
PHẦN IV 
VĂN HỌC ÁNH SÁNG thế kỷ XVIII 
VĂN HỌC PHƯƠNG TÂY GỒM CÓ 
PHẦN I: VĂN HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI 
CHƯƠNG 1:KHÁI QUÁT VỀ NỀN VĂN HÓA CỔ ĐẠI HY LẠP 
CHƯƠNG 2:THẦN THOẠI 
CHƯƠNG 3:SỬ THI HOMER 
CHƯƠNG 4:BI KỊCH HY LẠP 
PHẦN II:VĂN HỌC PHỤC HƯNG 
CHƯƠNG 5:KHÁI QUÁT 
CHƯƠNG 6:VĂN HỌC Ý 
CHƯƠNG 7:VĂN HỌC ANH 
PHẦN III:VĂN HỌC CỔ ĐIỂN 
CHƯƠNG 8:KHÁI QUÁT 
CHƯƠNG 9:NGỤ NGÔN CỦA LA FONTAINE 
CHƯƠNG 10:BI KỊCH CỦA CORNEILLE và RACINE 
CHƯƠNG 11:HÀI KỊCH CỦA MOLIERE 
PHẦN IV:VĂN HỌC ÁNH SÁNG thế kỷ XVIII 
PHẦN I: VĂN HỌC CỔ ĐẠI HY LẠP 
CHƯƠNG 1:KHÁI QUÁT VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ NỀN VĂN HÓA CỔ ĐẠI HI LẠP 
Văn học cổ đại Hi Lạp từ lâu đã trở thành một giá trị quý giá phổ biến của toàn nhân loại . Hiếm có một thần thoại của dân tộc nào trên thế giới lại luôn luôn tái sinh, thường xuyên có mặt trong đời sống thường ngày suốt từ đò đến nay như thần thoại HL. Ngay từ thời cổ đại, thần thoại Hi Lạp đã “hóa thân” thành thần thoại La Mã, lại còn làm nền tảng và cảm hứng cho sử thi, bi kịch và nghệ thuật tạo hình. Do công “tái chế biến» của văn hóa La Mã, ngày nay các nhân vật thần thoại Hi Lạp tồn tại với hai tên gọi khác nhau. Văn học La Mã cũng có sáng tạo góp thêm một số sự tích, truyền thuyết. 
Thần thoại là nền tảng đầu tiên của nền văn học cổ đại Hi Lạp . 
Sử thi (anh hùng ca) là thể loại rực rỡ một đi không trở lại nhưng tấm gương của nó còn soi sáng mãi đến ngày nay . 
Bi kịch cổ đại là cơ sở mẫu mực sẽ tiếp tục góp phần xây dựng kịch châu Âu suốt từ thời đại Phục Hưng trở về sau . 
 Trong ngôn ngữ của loài người, nhiều từ ngữ Hi Lạp được sử dụng, nhiều ám dụ, tỉ dụ có nguồn gốc từ văn học cổ Hi Lạp. Văn học Hi Lạp đã trở thành những kiến thức phổ thông, là phương tiện nhận thức hiểu biết những vấn đề phức tạp khác. Khi nghiên cứu các nền văn hóa phương Tây mà thiếu vốn hiểu biết về văn học cổ Hi Lạp thì quả là khó khăn. Trong giao tiếp hoặc khi diễn đạt tư tưởng, biết sử dụng những lối nói ấy làm cho tư tưởng mềm mại, có duyên, dễ được chấp nhận hơn (Thần thoại Hi Lạp,Tập I – Nguyễn Văn Khoả). 
 Mẫu mực văn học cổ đại Hi Lạp và chủ nghĩa nhân văn Hi Lạp đã làm kinh ngạc bàng hoàng Tây Âu và đã góp phần thúc đẩy một phong trào văn hoá mệnh danh là Phục Hưng kéo dài gần ba thế kỉ, tiếp tục ảnh hưởng sâu đậm đến các thế kỉ sau nữa . 
Nền văn hóa và văn học cổ Hi Lạp giữ vị trí đặc biệt lớn lao và sâu sắc trong lịch sử phát triển nền văn minh tinh thần Tây Âu. Nó mở đường bằng triết học, thần thoại, sử thi, kịch, thơ, văn hùng biện, sử học, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, hội họa và gây ảnh hưởng bao trùm xuyên suốt lịch sử nghệ thuật Tây Âu qua trung đại tới hiện đại . 
Karl Marx nhận xét: “Không có cơ sở văn minh Hi Lạp cổ đại và đế quốc La Mã thì không có châu Âu hiện đại” . 
Đặc điểm tích cực của xã hội Hi Lạp : 
 Những cuộc đấu tranh chống xâm lược bảo vệ thể chế dân chủ Athens . 
 Ý thức tự cường dân tộc từ khi dựng nước và giữ nước của người Hi Lạp . 
 Trong bối cảnh đó nảy sinh một nền nghệ thuật lớn lao, trước hết dễ nhận thấy nhất là thành tựu kiến trúc và điêu khắc tuyệt vời . 
 Triết học cổ đại chứng tỏ con người Hi Lạp sớm suy tư về thế giới và nguồn gốc vạn vật một cách sâu sắc. 
 Thiên văn, địa lí, toán học, y dược, sử học và sinh học cũng phát triển . 
 Đặc biệt, mĩ học ra đời góp phần đúc kết và định hướng văn- nghệ phát triển, đẩy văn học nghệ thuật đạt tới đỉnh cao của nó 
Ba thời kì văn học cổ Hi Lạp: 
1.Thời kì thứ nhất (thời thượng cổ), bắt đầu từ khi có những bút tích văn học đầu tiên đến thế kỷ V trước công nguyên . 
2.Thời kỳ cổ điển (còn gọi Atich) từ chiến tranh Ba Tư- Hi Lạp đến thế kỷ II tr. CN . 
3.Thời kỳ chủ nghĩa Helen (hoặc Alexandre) từ thế kỷ III đến thế kỷ I tr.CN. 
 Trước khi có văn học viết, trên đất nước «con cháu các vị thần » này đã có một nền văn chương thần thoại phong phú vào bậc nhất thế giới .Từ những chất liệu thần thoại đẹp đẽ giàu giá trị nhân văn, triết lý này, những ca sĩ dân gian đã sáng tác những bài ca bất tử về các vị thần, các anh hùng thành bang. . . Những bài ca ấy lạI được Homer kế thừa để sáng tạo nên hai thiên anh hùng ca (sử thi) vĩ đại Illiade và Odyssee . 
 Thơ trữ tình cũng phát triển vớI những tên tuổi Tiecte,Minermer, Ximonite, Pindare, Sapho  Đó là những sáng tác thô sơ đầu tiên về tình yêu của con người . 
 Bi kịch ra đời là do sự kết hợp sử thi và thơ trữ tình, trực tiếp bắt nguồn từ lễ tế thần rượu nho Dionisote. 
 Hài kịch cũng phát triển với cảm hứng nảy sinh từ thể chế dân chủ, tiêu biểu là nhà viết kịch Aristophan. 
CHƯƠNG II:THẦN THOẠI HY LẠP 
 Thần thoại Hi Lạp là một hệ thống các truyện kể phong phú đẹp đẽ xếp vào hàng những truyện hay nhất thế giới. Trước khi có chữ viết, người Hi Lạp đã sáng tác những câu chuyện kì diệu để gửi vào đó nhận thức về thế giới, kinh nghiệm sống và ước mơ và khát vọng. 
Đó là quá trình chinh phục thiên nhiê ... nghĩa duy cảm (coi nhẹ lí trí).Một năm sau khi cuốn sách ra đời, Goethe làm thêm bài thơ nhan đề “Nỗi đau của chàng Vecte” có câu “Bạn ơi hãy làm người dũng cảm chớ theo gương tôi”. 
Vở kich Faust 
1.1. Faust và kết cấu độc đáo 
 Faust là kiệt tác lớn nhất của Goethe, vở kịch thơ độc đáo và đồ sộ gồm trên 1200 câu thơ và chia là hai phần “Faust I” và “Faust II” có cấu tạo khác nhau chưa kể 32 câu thơ “đề tặng” và hai màn phụ “giáo đầu ở nhà hát” và “giáo đầu trên thiên đường”. Nhà thơ bắt đầu thai nghén “Faust I” từ 1769 khi còn đang học đại học luật. Khi đến Vaima, ông mang theo bản thảo. Sau nhiều lần bổ sung, sưả chữa, Faust I ra đời năm 1808, Tiếp tục viết phần hai, hoàn thành 7-1831 và được in sau khi ông ra đời. 
 “Đề tặng” mở đầu vở khịch với 32 câu thơ nói với các nhân vật. Ngoài ý nghĩa tặng cho bạn bè thân quen lúc ấy đã mỗi người mỗi ngã, còn là lời giải thích lí do nhà thơ chọn đề tài. Hình bóng Faust chập chờn ám ảnh thôi thúc ông. Truyền thuyết về bác sĩ Faust đã đáp ứng những tâm tư tình cảm của Goethe. 
 Faust I gồm 25 cảnh liên tiếp, mỗi cảnh chuyển tới một địa điểm khác. Thời gian trong cốt truyện kéo dài hàng năm. Từ căn phòng làm việc của tiến sĩ Faust đến cổng thành, từ quán rượu Auebec ở Laixich đến một cánh đồng u ám hoang vu, từ rừng thẳm hang sâu đến nhà giam Nhà học giả Faust ngồi trong phòng làm việc suy nghĩ miên man, cảm thấy đau khổ tột cùng vì biết mình tuy học rộng hiểu nhiều, biết rõ những giá trị kiến thức của mình còn kém xa bao điều bí ẩn chưa tìm ra được. Faust dùng ma thuật gọi Thần Đất lên để tìm hiểu về những đieuà huyền bí của vũ trụ, nhưng khi thần xuất hiện chói lọi quá ông không chịu đựng nổi, lại càng tuyệt vọng khi nghe 
 Faust II chia làm 5 hồi, về hình thức là trở lại cấu trúc của bi kịch cổ điển chủ nghĩa. Vừa ở trại giam đi ra, Faust đau đớn ngã ramê man giữa cánh đồng cỏ dại. Các nàng tiên nữ bay liệng, múa hát ru cho Faust ngủ yên. Sau khi phục hồi sinh lực và sức lực, Faust lại cùng Mephisto tiếp tục cuộc hành trình. Hai người xin vào triều đình gặp vua. Vua tỏ ý muốn xem mặt nàng Helene (Helene – hoàng hậu Hi Lạp, bỏ vua chạy theo chàng Paris về thành Troice), người mĩ nữ nổi tiếng xinh đẹp nhất thời cổ đại Hi Lạp. 
 Bi kịch Faust là một bản anh hùng ca. Trong văn học thế giới, hiếm có tác phẩm nội dung phong phú, tư tưởng sâu sắc, phương tiện văn chư­ơng biến đổi linh hoạt đến như thế. Lối thơ và vần điệu cũng thay đổi theo sát hành động kịch. Các đoạn đối thoại triết học xen kẻ với cảnh sinh hoạt, khúc ca trữ tình xen kẽ với văn xuôi. Toàn bộ lịch sử nhân loại được khơi dậy dọc theo cuộc hành trình của Faust, từ cuộc chiến tranh thành Troie đến sự sụp đổ của Misolonghi, từ bi kịch Euripide (Hi Lap cổ) đến nhà thơ Anh Byron từ Thales triết gia – nhà toán học cổ đại Hy Lạp đến Alexan de Humbon triết học gia Ánh sáng. 
1.2. Faust và bóng dáng thời đại 
 Faust là một nhân vật có thật trong lịch sử dân tộc Đức, một nhà chiêm tinh biết làm trò ảo thuật, sống vào khoảng 1480 đến 1540. Nhưng quanh con người ấy, nhân dân đã thêu dệt nhiều huyền thoại khiến cho Faust chẳng bao lâu trở thành nhân vật hư cấu hoàn toàn. 
Năm 1587, ở quê hươnảo thuật nổi tiếng”. Theo cuốn truyện này, Faust tìm được Mephisto kí giao kèo bán linh hồn cho quỉ, ngược lại quỉ hứa phục vụ Faust trong 24 năm, giúp anh đi sây vào các khoa học thần bí. Về sau nhiều lúc hói hận, Faust muốn cưỡng lại quỉ nhưng không được. g Goethe, xuất hiện cuốn truyện khuyết danh “Lai lịch bác sĩ Faust, thầy phù thuỷ và nhà 
 Năm 1588, nhà văn Anh Cristophe Maclo viết “Bi kịch về bác sĩ Faust “ , xây dựng nhân vật chính thành nhân vật chính thành mẫu người của thời đại Phục hưng khát khao hiểu biết, dũng cảm, có nghị lực, dám quay lưng lại với Thưọng đế. 
 Tuy nhiên, cuối tác phẩm, tác giả vẫn để cho quỉ sứ đánh chết Faust sau khi bác sĩ cầu xin các vị thiên thần cứu giúp không được. 
 Viết bi kịch Faust, Goethe hướng về nguồn cam hứng dân tộc, đó là việc làm có ý nghĩa lớn trong hoàn cảnh xã hội Đức lúc bấy giờ. So với trước, Faust của Goethe có những biến đổi quan trọng và sâu sắc hơn nhiều. Trước hết, vở kịch này phản ánh những vấn đề lớn của thời đại nhà thơ, trải qua những chặng đường lịch sử khác nhau vì vở kịch này được viết trong thời gian kéo dài trên sáu mươ năm. 
 Tâm hồn Faust rất nặng nề vì ông cảm thấy mình là nạn nhân của hệ thống giáo dục phản động. Ông đã học qua cả bốn khoa của trường đại học thời đó, đỗ tiến sĩ, được phong làm tôn sư mà theo ông “rốt cục thử nhìn lại xem, thầy với trò vẫn dốt!” với mớ kiến thức nghèo nàn, vô nghĩa, giả trá, vô tích sự 
 Những băn khoăn day dứt của Faust nhiều khi được tác giả đặt vào miệng Quỉ. Đó là lúc Quỉ giả trang làm Faust để tiếp xúc với đám học trò trẻ tuổi đến xi thụ giáo, hắn đã phê phán không thương xót các môn Triết, môn Luật, đặc biệt môn thần học và phần nào cả môn Y học trong trường đại học đương thời. 
 Rộng hơn trường đại học, đó là chế độ phong kiến bất công, những kẻ bất tài thì quyền cao chức trọng đè đầu cưỡi cổ người khácThêm vào đó là nhân tình thế thái đen bạc, người đời ưa chế giễu khi thấy ai làm được việc tốt đẹp. 
 Faust trong phần đầu vở kịch là kiểu nhân vật khổng lồ thoe kiểu hậu sinh củ Promethe (cổ Hi Lap). Tâm trạng phản kháng của Faust lên tới đỉnh cao khi ông bảo quỉ Mephisto “thế giới này, anh cứ mặc sức mà tàn phá nát”. Rồi ông kí giao kèo với Quỉ, muốn tạm thời lợi dụng phép thuật của Quỉ muốn tạm thời lợi dụng phép thuật của Quỉ để thoát khỏi cuộc sống ngột ngạt để đi tìm chân lí và lẽ sống. 
 Bóng dáng xã hội phong kiến sau đó lại hiện lên đậ m nét trong tấn bi kịch Macgret– một trong các sự kiện chính của vở kịch và chiếm 19/25 cảnh của Faust I. Macgret là một hình tượng nhân vật nữ đẹp trong văn học thế giới. 
 Faust II sáng tác vào thời kì cách mạng tư sản đang diễn ra sôi sục ở nhiều nước châu Aâu tiếp sau Cacùh mạng tư sản Pháp 1789. Nhà thơ có dịp đưa vào tác phẩm cái hình ảnh toà lâu đài phong kiến đang tan rã và có nguy cơ bị ngọn lửa cách mạng thiêu cháy. Trong màn khiêu vũ hoá trang (hồi I), đám cháy tượng trưng cho Cách mạng. 
 Faust cũng ít nhiều phản ánh sinh động quá trình làm giàu chất dầy tội lỗi của chủ nghĩa tư bản. Ngay cả nhân vật chính Faust căn bản là người tốt, mang trong mình khí thế của giai cấp tư sản đứng lên chống phong kiến nhưng có quỉ đằng sau nên cũng bị kích thích lộ ra mặt trái của ông. 
1.3. Faust và triết lí hành động 
 Nhà khoa học Faust và Quỉ Mephisto đi cùng nhau suốt chặng đường dài, cùng chung một giao kèo nhưng khác nhau cái đich tới. Faust mong tìm ra lẽ sống ở đời, quỉ muốn chiếm linh hồn Faust. Quỉ luôn luon tin tưởng ở thắng lợi vì hắn nhận định rằng con người là tầm thường, dễ dàng thoả mãn với dục vọng thấp hèn. 
 Quỉ dẫn Faust tới quán rượu Auơbach nhằm quyến rũ Faust bằng con đường ăn chơi nhậu nhẹt. Để dựng cảnh này, nhà thơ đã tái hiện những cảnh mắt thấy tai nghe trong cuộc sống ăn chơi sa đoạ của sinh viên Laixich. Thực tế là đã không có không ít thanh niên sinh viên đã tiêu ma sự nghiệp trong những nơi như thế. Nhưng Quỉ đã đánh giá lầm Faust. Cái bả tầm thường ấy không lung lạc được ông. Ông chỉ ngắm nhìn dửng dưng và bảo Mephisto dời đi chỗ khác. 
 Thất bại keo đầu, Mephisto chuyển sang dùng bả sắc dục. Trước hết phải làm cho Faust trẻ lại trong lò luyện đan của mụ phù thuỷ rồi sau đó mới đẩy Faust đến chỗ cô gái đẹp Macgret. Có thể nói Macgret là lời cám dỗ đầu tiên đối với Faust. Ông khát khao cô gái và doạ sẽ từ bỏ Quỉ nếu y không giúp ông đón Macgret ngả vào cánh tay mình tối hôm đó 
 Thất bại lần thứ hai, Quỉ lại dùng bả vinh hoa, dẫn Faust vào triều dình gặp vua. Nhưng danh vọng, địa vị, tiền bạc chưa có tác dụng gì đối với Faust và sự xuất hiện của mỹ nhân Helene năm ngoài dự kiến. Mephisto bị động, phải lẽo đẽo đi theo Faust xuống âm phủ tìm người mĩ nữ Hy lạp cổ đại. 
 Những chuỵên ăn chơi sắc dục và vinh hoa đã chứng tỏ không phải là lẽ sống của nhà khoa học Faust trong khi những thứ đó đã là những cám dỗ phổ biến chôn vùi sự nghiệp bao người trên thế gian này. 
Mối quan hệ Faust-Macgret-Helene có ý nghĩa phức tạp hơn. 
 Sau khi thoát khỏi cạm bẫy sắc dục, Faust đến với Macgret là xây dựng một tình yêu chân chính, là đến với cuộc sống bình thường của con người. Tuy vậy Faust vẫn còn băn khoăn day dứt. Ông nghĩ về khuôn khổ chật hẹp trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Tình yêu bé nhỏ ấy đã phải là lẽ sống cao nhất của đời ông chưa ? hay nó sẽ níu áo ông – nhà khoa học trên con đường vươn tới những khát vọng cao cả ? Tình yêu của Macgret đem tới cho Faust cả niềm hạnh phúc cả nỗi đau đớn. Hai linh hồn tranh chấp trong con người ông như có lần ông đã tự thú. Chắc hẳn Faust sẽ không thoả mãn với hạnh phúc êm đềm, phẳng lặng trong tình yêu của Macgret và bi kịch Macgret không bao giờ tránh khỏi. 
 Trái với truyền thuyết, trong bi kịch Faust sự kiện Helene không phải do âm mưu của Quỉ nhưng nàng vẫn là một thử thách thực sự đối với Faust. Helene tượng trưng cho Cái Đẹp và Nghệ Thuật. Tin rằng nghệ thuật là cao quí nhưng nhà thơ đã phải tự đặt ra câu hỏi – hiến mình cho Nghệ Thuật có phải là lẽ sống cao nhất hay chưa ?! Bản thân nhà thơ Goethe suốt đời tận tuỵ với sự nghiệp sáng tác, đã từng rời bỏ triều đình Vaima, sang Italia nghiên cứu nghệ thuật cổ đại Hy – La. Nhà thơ đã xây dựng hình tượng chú bé Euphorion – nhân vật mang dòng máu của cha (Faust) có ý chí và hoài bão lớn lao, muốn bay nhảy chứ không chịu bò lết, muốn xông vào nơi mũi nhọn của cuộc chiến đấu. 
 Bao nhiêu mưu ma chước quỉ của Mephisto đều không làm cho Faust sa ngã Faust. Quỉ thất vọng, tưởng chừng không còn lạc thú nào ở trần gian có thể khiến Faust ham muốn thì ông nói với Quỉ “hành động là tất cả, danh vọng không nghĩa lí gì”. Faust đã tìm thấy lạc thú và lẽ sống: sự nghiệp khai khẩn đất hoang, hành động thực tiễn vì lợi ích của mọi người. 
 Thực ra không phải đến lúc này Faust mới nhận thức được điuề đó. Ngay từ đầu tác phẩm, khán giả đã nhận thấy nhân vật này gần gũi và yêu mến nhân dân. Trong buổi đi chơi ra cổng thành, ông cảm thấy sung sướng được tiếp xúc với nhân dân lao động, thoát khỏi thấy độ cau có, khó chịu của trợ lí Vacne. Đến lúc quay về phòng, ngồi dịc Kinh Thánh (tiếng Latinh) ra tiếng Đức, Faust loay hoay mãi với câu đầu tiên :” khởi thuỷ là Lời” (In intio erat verbum). Ông không thể tán đồng quan điểm đề cao Lời nói (lời Thượng đế phán truyền). Đắn đo cân nhắc mãi xem có nên dịch “khởi thuỷ là tư tưởng”, “khởi thuỷ là sức mạnh” hay không, cuối cùng nhà khoa học hạ bút viết: “Khởi thuỷ là hành động”. Ngay từ đầu ông đã thoáng thấy hình dáng chân lí. Quá trình làm bạn với Quỉ Mephisto là quá trình kiểm nghiệm chân lí. Cuối cùng nhà thơ đã giác ngộ hoàn toàn : đọc thiên kinh vạn quyển như ông mà không hướng tới một hành động vì nhân dân thì vốn kiến thức ấy chỉ là mớ lí tưởng suông, xám xịt, còn cây đời thì mãi mãi xanh tươi “. 
 Nhân vật Vacne là kiểu học giả tương phản với tính cách Faust. Y thích ứng với hoàn cảnh xã hội phong kiến, thoả mãn với cuộc sống chật hẹp, với lối học sách vở, tầm chương trích cú. 
 Triết lí hành động là một trong tư tưởng sâu sắc nhất của kịch Faust. Tuy nhiên ở đây cũng thể hiện phần nào những hạn chế của Goethe. Trong phần một, Faust có khát vọng và tinh thần phản kháng mạnh mẽ bao nhiêu thì sang phần II tư tưởng của ông trở nên hoà hoãn bấy nhiêu. Màn độc thoại của nhân vật chính mở đầu “ Faust II”, nhà thơ lại để cho nhân vật nói lên những hạn chế, nhược điểm của nhân loại. Hành động thực tiễn là đúng, nhưng trong hoàn cảnh nước Đức phong kiến chưa hoàn thành Cách mạng tư sản mà đưa ra hình ảnh “khai mương đắp đập” có hợp lí không ? Tất nhiên không nên hiểu đắp đập khai mương theo nghĩa đen cũng như không cần phải băn khoăn vì sao nhà thơ lại dịch “khởi thuỷ là Lời” biến thành “ khởi thuỷ là hành động”. 
4. Faust và chủ nghĩa nhân đạo 
 Cách tổ chức sự kiện và tình tiết trong kịch Faust là một trong những biểu hiện chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ. Đó là tình trạng Faust mắc vào một mâu thuẫn khó giải quyết giữa tình yêu và lí tưởng của chính mình. Faust có ý chí vươn lên mãnh liệt nhưng ông cũng yêu Macgret với tất cả tâm hồn mình. Nếu Faust đắm mình trọn vẹn trong tình yêu nhỏ bé này thì ông là người tầm thường. Nhưng nếu ông lạnh lùng dứt áo ra đi (coi tình yêu nhẹ như lông hồng) để tiếp tục sự nghiệp thì ông cũng là một kiểu người tầm thường khác, thậm chí còn là kẻ nhẫn tâm nữa. 
 Dưới ngòi bút của Goethe, Faust cố sức tìm cách cứu Macgret ra khỏi nhà ngục, chỉ thất vọng khi chính cô không chịu ra. Giải quyết như thế vừa tăng cường âm hưởng chống phong kiến, vừa mở đường cho Faust tiếp tục cuộc hành trình để tìm lẽ sống mà Faust vẫn là một con người thuỷ chung nhất mực, giàu lòng nhân đạo. 
 Tinh thần nhân đạo cao cả của Goethe chủ yếu toát lên từ chủ đề vở kịch, qua mối quan hệ giữa Faust và Mephisto. Mephisto là con quỉ hư vô chủ nghĩa tuyệt đối. Hắn tự giới thiệu bản chất của hắn là loại “ yêu ma luôn luôn phủ nhận “, là “tội lỗi”, là “phá huỷ”, tóm lại là cái Aùc. Do đó hắn có hai mặt. Một mặt hắn tung ra những ý kiến sâu sắc vạch trần các ung nhọt của xã hội phong kiến và xã hội tư bản. Những lúc ấy, khán giả đồng tình với hắn. Mặt khác, hắn lại không tin vào bất cứ cái gì tốt đẹp trên đời. Hắn phỉ báng con người trước mặt Đức Chúa Trời. 
 Mephistophen và Faust là hai tính cách hoàn toàn đối lập nhau nhưng lại gặp nhau ở một điểm là cùng phủ nhận cái trật tự xã hội trước mắt . Chính từ đấy xuất hiện tình huống kịch : Faust kí giao kèo với Mephisto. Cả hai đều tin mình sẽ thắng. Quỉ tin chắc có thể dễ dàng làm cho Faust hài lòng thoả mãn. Còn Faust tin ở ý chí vươn lên của ông sẽ không bao giờ tàn lụi. 
 Trong vở kịch này, các hình tượng Chúa, quỉ, thiên thần và những chi tiết thiên đường, địa ngục, tiếng chuông nhà thờ, ngày lễ Phục Sinhchỉ là những biểu tượng nghệ thuật chứ không phải mang ý nghĩa tôn giáo. Goethe cũng như Faust vốn chẳng tin gì ma quỉ thánh thần, “việc cõi bên kia ta ít cần chú ý”. Căn bản Goethe là một nhà duy vật. Engels nhận xét rất thú vị “Goethe không muốn dính dáng gì tới Thượng đế cả ; tiếng đó làm cho ông khó chịu, Goethe sở dĩ vĩ đại là do lòng nhân đạo ấy” 
 Xét về một phương diện triết học, Faust và Mephisto là hai mặt của một vấn đề. Mephisto gợi lên cho ta nững yếu tố tiêu cực, lầm lạc, trì trệ của con người, còn Faust tiêu biểu cho những yếu tố tích cực, tiến bộ. Faust kí giao kèo với Mephisto tức là con người tự thách thức với bản thân mình. Cuộc đấu tranh diễn ra dai dẳng, quyết liệt. 
Sống là vươn lên không ngừng; dừng lại có nghĩa là chết. Con người vươn lên bằng cách không ngừng khắc phục những mặt tiuê cực, trì trệ, ngưng đọng.Vì thế “quỉ Mephisto “xét về ý nghĩa nào đó lại cần thiết cho con người, “do Chúa ban cho con người”. (Ý nói: chính Chúa tạo điều kiện cho Mephisto đến thử thách con người), để nó kích thích, hoành hành, gây sự. Bởi nếu thiếu nó thì con người không biết khắc phục cái gì và cuộc sống sẽ dừng lại. 
Faust là một bi kịch nhưng lại đậm đà hương vị lạc quan. 
Ở Đức, cùng lúc với Goethe còn có Lessing, Clinge cũng viết đề tài Faust. 

File đính kèm:

  • pptbai_giang_van_hoc_phuong_tay.ppt