Bài giảng môn Triết học Mác-Lênin

I.- Triết học là gì

1.Triết học và đối tượng của triết học

 a) Khái niệm triết học, nguồn gốc của triết học

-Triết học ra đời cả ở phương Đông và phương Tây (khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên ) tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc,ấn Độ, Hy Lạp.

Theo người Trung Quốc thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết. Triết học chính là trí, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.

Ở Ấn Độ, triết học có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí , là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.

Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp. nếu chuyển từ tiếng hy Lạp cổ sang tiếng La tinh thì triết học là phylosophia, nghĩa là yêu mến sự thông thái. Với người Hy lạp, phylosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.

 Như vậy, dù ở phương Đông hay phương tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.

 -Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người và cuộc sống cộng đồng nói riêng. và thể hiện nó dưới dạng duy lý.

 

Bài giảng môn Triết học Mác-Lênin trang 1

Trang 1

Bài giảng môn Triết học Mác-Lênin trang 2

Trang 2

Bài giảng môn Triết học Mác-Lênin trang 3

Trang 3

Bài giảng môn Triết học Mác-Lênin trang 4

Trang 4

Bài giảng môn Triết học Mác-Lênin trang 5

Trang 5

Bài giảng môn Triết học Mác-Lênin trang 6

Trang 6

Bài giảng môn Triết học Mác-Lênin trang 7

Trang 7

Bài giảng môn Triết học Mác-Lênin trang 8

Trang 8

Bài giảng môn Triết học Mác-Lênin trang 9

Trang 9

Bài giảng môn Triết học Mác-Lênin trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

doc 125 trang Trúc Khang 12/01/2024 1941
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng môn Triết học Mác-Lênin", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bài giảng môn Triết học Mác-Lênin

Bài giảng môn Triết học Mác-Lênin
Bài giảng triết họcChương I
Triết học và vai trò
của nó trong đời sống xã hội
I.- Triết học là gì 
1.Triết học và đối tượng của triết học
	a) Khái niệm triết học, nguồn gốc của triết học
-Triết học ra đời cả ở phương Đông và phương Tây (khoảng từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên ) tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc,ấn Độ, Hy Lạp.
Theo người Trung Quốc thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết. Triết 
học chính là trí, là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
ở Ân Độ, triết học có nghĩa là chiêm ngưỡng nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí , là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải. 
ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy lạp. nếu chuyển từ tiếng hy Lạp cổ sang tiếng La tinh thì triết học là phylosophia, nghĩa là yêu mến sự thông thái. Với người Hy lạp, phylosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.
 Như vậy, dù ở phương Đông hay phương tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.
 -Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người và cuộc sống cộng đồng nói riêng. và thể hiện nó dưới dạng duy lý.
 Khái quát lại, triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí vai trò của con người trong thế giới ấy.
 Với tư cách là hệ thống lý luận chung nhất triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện sau :
+Con người phải có vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ.
+ Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên cứu, hệ thống hoá các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và triết học ra đời.
Tất cả những điều trên cho thấy:
 Triết học ra đời từ thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội.
 Về nguồn gốc nhận thức, là lúc con người đạt đến trình độ trừu tượng hoá, khái quát hoá, hệ thống hoá để xây dựng nên các học thuyết, các lý luận.
 Về nguồn gốc xã hội, là lúc lao động phải phát triển đến mức có sự phân chia lao động chân tay và lao động trí óc, tức là xã hội đã phát triển đến mức chế độ 
Công xã nguyên thuỷ bị thay bằng chế độ Chiếm hữu nô lệ- chế độ có giai cấp đầu tiên của nhân loại.
 Vì vậy, từ khi ra đời, triết học, tự nó đã mang tính giai cấp, nghiã là nó phục vụ cho lợi ích của những giai cấp, những lực lượng xã hội nhất định.
*Lưu ý :Những nguồn gốc trên có quan hệ mật thiết với nhau và sự phân chia chúng chỉ có tính chất tương đối 
b- Đối tượng của triết học; sự biến đổi của đối tượng triết học qua các giai đoạn lịch sử.
+Khi mới ra đời, triết học thời cổ đại được gọi là triết học tự nhiên, bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực, không có đối tượng riêng.
 Thời kì này, triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó còn in đậm đối với sự phát triển của tri thức thời hiện đại cả trong vật lý, toán học, hoá học, thiên văn học.. .cho đến mỹ học, đạo đức học dân tộc học. ..Nổi bật trong triết học của Đêmôcrit.
 + Thời kì trung cổ:. Triết học chỉ còn nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho sự đúng đắn của những nội dung trong kinh thánh. Nền triết học tư nhiên được thay bằng triết học kinh viện .
+Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào thế kỷ XV- XVI đã tạo một cơ sở tri thức vững chắc cho sự phục hưng triết học.
 Triết học duy vật chủ nghĩa đã phát triển nhanh chóng trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo và đã đạt tới đỉnh cao mới trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII- XVIII ở Anh, Pháp, Hàlan,
 Mặt khác, tư duy triết học cũng được phát triển trong các học thuyết triết học duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen, . 
+ Đầu thế kỷ XIX, do hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Đoạn tuyệt với quan niệm "triết học là khoa học của mọi khoa học", triết học Mác xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Triết học nghiên cứu thế giới bằng những phương pháp của riêng mình . Nó xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm cách đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. 
Mặc dù vậy, cái chung trong các học thuyết triết học là nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh. 
2- Triết học - hạt nhân lý luận của thế giới quan
 Thế giới quan : là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó.
- Trong thế giới quan có sự hoà nhập giữa tri thức và niềm tin.
 + Tri t ... c động, tạo nên thể thống nhất và hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu tái sản xuất xã hội; nhu cầu tình cảm; nhu cầu thẩm mỹ và hưởng các giá trị tinh thần.
.Như vậy , Hai mặt sinh học và xã hội thống nhất với nhau hoà quyện vào nhau để tạo thành , con người tự nhiên- xã hội, con người văn hoá 
b- Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.
Con người vượt lên trên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: Quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội, và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội. Trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả mọi quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực có liên quan đến con người.
Bởi vậy để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, C.Mác đã nêu lên một luận đề nổi tiếng: "Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội"
Luận đề trên khẳng định không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định.
Lưu ý : luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người, trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt con người với thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã hội và đó cũng là để khắc phục những thiếu sót của các nhà triết học trước Mác không thất được bản chất xã hội của con người
c- Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song điều quan trọng hơn cả là, con người luôn là chủ thể của lịch sử xã hội. 
Như vậy, với tư cách là một thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm phong phú thêm giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình.
 Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.Trên cơ sở nắm bắt quy luật lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần , thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu con người đặt ra.
 Vì không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vân động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là một hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là " tổng hoà các quan hệ xã hội", con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con người cũng vân động biến đổi cho phù hợp.
 Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn.
 Thông qua đó, con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất.
 II- Quan hệ giữa cá nhân với xã hội
1- Khái niệm cá nhân.
Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính phổ biến và tính đơn nhất của nó.
Yếu tố xã hội là đặc trưng căn bản để hình thành cá nhân.
 Trong quan hệ với xã hội ,cá nhân được phân biệt với các đặc trưng sau:
Thứ nhất, cá nhân là phương thức tồn tại cụ thể của loài người một cách trực tiếp cảm tính..
Thứ hai, cá nhân là phần tử đơn nhất, riêng lẻ, tạo thành cộng đồng xã hội, là cơ sở để hình thành lịch sử xã hội loài người.
Thứ ba, Cá nhân là một chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách, biểu hiện bản chất trong phẩm chất sinh lý và tâm lý riêng biệt của mỗi con người.
 Thứ tư, cá nhân, trong mối quan hệ với xã hội, là một hiện tượng lịch sử, vận động phát triển phù hợp với mỗi thời đại nhất định.
 Do vậy, trong bất cứ xã hội nào, cá nhân cũng không tách rời khỏi xã hội, mỗi thời đại sản sinh ra một kiểu cá nhân có tính đặc thù, thậm chí đối lập nhau, trong những quan hệ xã hội xác định .
2- Khái niệm nhân cách.
+Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân.
Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi cá nhân, là sự tổng hợp của các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội tạo nên đặc trưng riêng về di truyền, về sinh lý thần kinh, về hoàn cảnh sống của cá nhân theo cách riêng của mình. 
Vì vậy nhân cách là toàn bộ những năng lực phẩm chất xã hội- sinh lý- tâm lý của cá nhân tạo thành chỉnh thể đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định và tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình .
+ Nhân cách không phải là bẩm sinh có sẵn mà được hình thành và phát triển phụ thuộc vào ba yếu tố sau đây: 
 Thứ nhất, nhân cách phải dựa trên tiền đề sinh học và tư chất di truyền học, một cá thể sống phát triển cao nhất của giới hữu sinh.
 Thứ hai, Môi trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển của nhân cách thông qua sự tác động biện chứng của gia đình, nhà trường và xã hội đối với mỗi cá nhân. 
Thứ ba, hạt nhân của nhân cách là thế giới quan cá nhân, bao gồm toàn bộ các yếu tố như quan điểm, lý luận niềm tin, định hướng giá trị...
+Yếu tố quyết định để hình thành thế giới quan cá nhân là tính chất của thời đại; lợi ích vai trò địa vị của cá nhân trong xã hội; khả năng thẩm định giá trị đạo đức- nhân văn và kinh nghiệm của mỗi cá nhân.
 Sự hình thành và phát triển của nhân cách là sự thống nhất của các yếu tố sinh học, tâm lý và xã hội để xác lập "cái tôi" của cá nhân.
3- Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
a- Quan hệ biện chứng giữa cá nhân và tập thể.
Tập thể :Là phần tử tạo thành xã hội , là hình thức liên kết các cá nhân thành từng nhóm xuất phát từ lợi ích, nhu cầu về kinh tế chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, khoa học, tư tưởng, nghề nghiệp...
Cá nhân và tập thể có mối quan hệ biện chứng : vừa thống nhất , vừa đối lập nhau .
+Sự thống nhất : Mỗi cá nhân chỉ tồn tại và phát triển được trong 1 cộng đồng nhất định . Do đó , sự hình thành tập thể như 1 nhu cầu tự thân của mỗi cá nhân .
+Sự đối lập biện chứng : Do mỗi cá nhân là 1 cá thể đơn nhất , nên trong quan hệ với tập thể , mỗi cá nhân 1mặt không tách rời tập thể , mặt khác luôn có khuynh hướng muốn đứng đối diện với tập thể , không chịu sự quy định, ràng buộc của tập thể 
 Suy cho đến cùng, thực chất mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể là quan hệ lợi ích. Sự thống nhất biện chứng giữa cá nhân và tập thể là điều kiện cơ bản đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân cũng như của tập thể.
Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể đòi hỏi phải chống hai khuynh hướng cực đoan có hại cho sự phát triển của tập thể và cá nhân: tuyệt đối hoá tập thể, bắt cá nhân phải hy sinh một chiều; hoặc ngược lại, tuyệt đối hoá lợi ích cá nhân để "cái tôi" của chủ nghĩa cá nhân phát triển.
 b- Quan hệ biện chứng giữa cá nhân và xã hội.
-Xã hội : Là 1 cộng đồng người có tổ chức , liên kết các cá nhân với nhau 
-Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội có những nội dung thống nhất với quan hệ giữa cá nhân và tập thể, chúng đều dựa trên cơ sở lợi ích, biểu hiện mối quan hệ giữa cái bộ phận và cái toàn thể, đồng thời đó là mối quan hệ tất yếu - biện chứng,vừa thống nhất ,vừa mâu thuẫn.
Trong đó ,xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá nhân.
 Bởi vậy, thực chất của việc tổ chức xã hội là giải quyết quan hệ lợi ích nhằm tạo khả năng cao nhất cho mỗi cá nhân tác động vào mọi quá trình kinh tế xã hội, cho sự phát triển được thực hiện. 
Xã hội càng phát triển thì cá nhân càng có điều kiện để tiếp nhận ngày càng nhiều những giá trị vật chất và tinh thần. Ngược lại ,việc thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của cá nhân là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.
Như vậy : Sự phát triển xã hội làm cho mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội ngày càng đa dạng , phức tạp , phong phú .Nhưng vai trò của cá nhân đối với xã hội lại phụ thuộc vào sự phát triển của nhân cách .
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, những mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội vẫn còn tồn tại. Do đó , để giải quyết đúng đắn quan hệ cá nhân- xã hội, cần phải tránh hai thái độ cực đoan.
 Một là, chỉ thấy cá nhân mà không thấy xã hội, Khuynh hướng này có thể dẫn đến chủ nghĩa cá nhân.
Hai là chỉ thấy xã hội mà không thấy cá nhân, coi nhẹ vai trò cá nhân, lợi ích cá nhân. 
ở nước ta hiện nay, lợi ích cá nhân ngày càng được chú ý, tạo ra cơ hội mới để phát triển cá nhân. Tuy nhiên cơ chế này có thể dẫn đến tuyệt đối hoá lợi ích kinh tế, dẫn đến phân hoá giàu nghèo trong xã hội, chứa đựng những khả năng đối lập giữa cá nhân và xã hội. Do đó chúng ta cần khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường, phát huy vai trò của nhân tố con người, thực hiện chiến lược con người của Đảng .
III- vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân trong lịch sử.
1- Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân.
a- Khái niệm
Quần chúng nhân dân là bộ phận có cùng chung lợi ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của một cá nhân, một tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
Khái niệm quần chúng nhân dân được xác định bởi những nội dung sau đây: 
Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra cuả cải vật chất và các giá trị tinh thần, đóng vai trò là hạt nhân cơ bảncủa quần chúng nhân dân.
Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng vớinhân dân.
Thứ ba, những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Do đó , quần chúng nhân dân là phạm trù lịch sử, vân động , biến đổi theo sự phát triển của lịch sử xã hội.
b- Vai trò của quần chúng nhân dân
Chủ nghĩa DVLS khẳng định quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử.
 Vai trò quyết định lịch sử của quần chúng nhân dân được biểu hiện:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của sự tồn tại, phát triển của xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào không là hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. 
Thứ ba, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần.
 -Quần chúng nhân dân đong vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học, nghệ thuật, văn học, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn. Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị đạo đức ...của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hoá tinh thần của các dân tộc trong thời đại.
 -Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tao tinh thần trong đời sống xã hội. 
2- Khái niệm lãnh tụ và vai trò của lãnh tụ
a- Khái niệm Lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất trưởng thành từ phong trào của quần chúng, nắm bắt được những vấn đề căn bản nhất trong một lĩnh vực nhất định của hoạt động thực tiễn và lý luận.
Để trở thành lãnh tụ, ngoài những phẩm chất trên, cá nhân kiệt xuất còn phải gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm và nguyện hy sinh thân mình cho lợi ích của quần chúng nhân dân.
Như vậy, lãnh tụ phải là người có những phẩm chất cơ bản sau:
Một là, Có tri thức khoa học uyên bác, nắm được xu thế vận động của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Hai là, Có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào nhiệm vụ của dân tộc, quốc tế và thời đại.
Ba là, Gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh quên mình vì lợi ích của dân tộc, quốc tế và thời đại.
b- Vai trò của lãnh tụ
 + Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết các quy luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.
- Định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách mạng
- Tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết những mục tiêu cách mạng đề ra.
+ Lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong trào quần chúng : 
- Thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ xã hội.
 - Lãnh tụ là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, là linh hồn của các tổ chức đó. 
-Lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra của thời đại đó.
 3- Quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ.
Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ là quan hệ biện chứng:
Thứ nhất, tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ :
Quần chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình. Sự thống nhất về các mục tiêu của cách mạng, của hành động cách mạng giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích quy định.
Mức độ thống nhất về lợi ích là cơ sở quy định sự thống nhất về nhận thức và hành động giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong lịch sử.
Thứ hai,Sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong vai trò khác nhau của sự tác động đến lịch sử. :Quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sự phát triển ,còn lãnh tụ là người định hướng, dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển của lịch sử.
4.Tệ sùng bái cá nhân 
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân, đồng thời đánh giá cao vai trò của lãnh tụ,nhưng cũng kiên quyết chống tệ sùng bái cá nhân.
Tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hoá người lãnh đạo, sẽ dẫn đến tuyệtđối hoá cá nhân kiệt xuất, vai trò người lãnh đạo mà xem nhẹ vai trò của tập thể lãnh đạo và vai trò của quần chúng nhân dân; 
Từ đó, dẫn đến tước bỏ hoặc hạn chế quyền làm chủ của nhân dân, làm cho nhân dân thiếu tin tưởng vào bản thân họ, dẫn đến thái độ phục tùng tiêu cực mù quáng, không phát huy được tính năng động chủ quan của mình. 
Mục lục
Chương
Trang
I
1
II
15
III
31
IV
39
V
55
VI
69
VII
81
VIII
95
IX
101
X
113
XI
133

File đính kèm:

  • docbai_giang_mon_triet_hoc_mac_lenin.doc