Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam
Nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan
hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn của các công ty cổ phần có vốn nhà
nước tại Việt Nam. Cấu trúc vốn của công ty được tính bằng tỷ lệ nợ phải trả
trên tổng tài sản. Mẫu quan sát của nghiên cứu này gồm 2.888 công ty cổ phần
có vốn nhà nước, được trích từ bộ dữ liệu Điều tra doanh nghiệp 2010 của
Tổng cục Thống kê. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy theo phương pháp OLS
cho thấy rằng, sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn có mối quan hệ ngược chiều,
đặc biệt là tại các công ty mà nhà nước nắm cổ phần chi phối. Kết quả ước
lượng còn cho thấy rằng, giới tính CEO có ảnh hưởng tương tác lên mối quan
hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn, trong đó, CEO của công ty là nam
giới sẽ làm hạn chế mối quan hệ ngược chiều này.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 1 – 11 1 ẢNH HƯỞNG TƯƠNG TÁC CỦA GIỚI TÍNH CEO LÊN MỐI QUAN HỆ GIỮA SỞ HỮU NHÀ NƯỚC VÀ CẤU TRÚC VỐN: TRƯỜNG HỢP CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN CÓ VỐN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM Đoàn Vinh Thăng1 1Trường Đại học An Giang Thông tin chung: Ngày nhận bài: 18/03/2016 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 05/05/2016 Ngày chấp nhận đăng: 06/2017 Title: Moderating effect of CEO gender on the relationship between state ownership and capital structure: the case of state-owned corporations in Vietnam Keywords: State ownership, capital structure, moderating effect, CEO gender, Vietnam Từ khóa: Sở hữu nhà nước, cấu trúc vốn, ảnh hưởng tương tác, giới tính CEO, Việt Nam ABSTRACT This paper evaluated the moderating effect of CEOs’ gender on the relationship between the state ownership and capital structure: the case of state-owned corporations in Vietnam. Capital structure was measured with the debt on total asset ratio. The population of this study includes 2,888 state-owned corporations quoted from the dataset “Enterprise Survey 2010” of General Statistics Office of Viet Nam. The OLS regression model shows that there is a statistically significant negative relationship between the state ownership and the capital structure of state-owned corporations, especially the corporations controlled by the state. The result also indicates that CEOs’ gender has a moderating effect on the relationship between state ownership and capital structure, in which Male CEOs has restricted this negative relationship. TÓM TẮT Nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn của các công ty cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam. Cấu trúc vốn của công ty được tính bằng tỷ lệ nợ phải trả trên tổng tài sản. Mẫu quan sát của nghiên cứu này gồm 2.888 công ty cổ phần có vốn nhà nước, được trích từ bộ dữ liệu Điều tra doanh nghiệp 2010 của Tổng cục Thống kê. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy theo phương pháp OLS cho thấy rằng, sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn có mối quan hệ ngược chiều, đặc biệt là tại các công ty mà nhà nước nắm cổ phần chi phối. Kết quả ước lượng còn cho thấy rằng, giới tính CEO có ảnh hưởng tương tác lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn, trong đó, CEO của công ty là nam giới sẽ làm hạn chế mối quan hệ ngược chiều này. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Sau chương trình Đổi Mới 1986, một cải cách kinh tế quan trọng khác đối với Việt Nam là chương trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đã được thông qua và có hiệu lực thực hiện từ 1992. Sau khoảng 20 năm từ khi chương trình này được khởi xướng, nhiều doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện việc chào bán cổ phần cho khu vực tư nhân. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra khá chậm chạp (Truong & cs., 2004). Dù thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời vào năm 2000 để tạo nền tảng cho việc thúc đẩy hoạt động cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, nhưng do luật pháp Việt Nam quy định về giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (Trước năm 2003, tỉ lệ sở hữu nước ngoài tối đa theo luật quy định là 20% tổng số cổ phần của doanh nghiệp nội địa. Tỉ lệ này được nâng lên mức 30% trong giai An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 1 – 11 2 đoạn 2003 – 2005 và 49% từ sau khi Luật Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực), nên trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 - 2009, sở hữu của khối ngoại chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong các doanh nghiệp ở Việt Nam. Và do đó, vai trò của sở hữu nhà nước đối với các quyết định trong công ty cổ phần thường chiếm vị trí chi phối vì chính phủ còn nắm giữ tỉ trọng lớn cổ phẩn của các công ty (Vu & cs., 2011; Hoang & cs., 2014). Một trong những quyết định quan trọng đối với các công ty cổ phần là quyết định về cấu trúc vốn của công ty. Cấu trúc vốn là hỗn hợp của vốn vay (nợ) và vốn cổ phần mà công ty sử dụng để tài trợ cho hoạt động đầu tư của công ty (Hardiyanto & cs., 2015; Trương Đông Lộc & Võ Kiều Trang, 2008). Nguyễn Minh Kiều (2009, tr. 509) cho rằng, công ty sử dụng nợ phù hợp sẽ gia tăng lợi nhuận cho cổ đông. Bởi vì, một trong những lợi ích của nợ đó là lá chắn thuế (Trương Đông Lộc & Võ Kiều Trang, 2008; Miller & Modifliani, 1963). Tuy nhiên, công ty có thể gặp rủi ro phá sản nếu sử dụng nợ quá mức và mất khả năng chi trả (Hardiyanto & cs., 2015; Trương Đông Lộc & Võ Kiều Trang, 2008), đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng tài chính (Ilman & cs., 2011). Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng có mối quan hệ giữa tỉ lệ sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn của các công ty cổ phần niêm yết (Li & cs., 2009; Trương Đông Lộc, 2009; Poyry & Maury, 2010; Hardiyanto & cs., 2015), trong đó, cấu trúc vốn được đo lường bằng tỉ lệ nợ trên tổng tài sản. Tuy nhiên, các nghiên cứu này cho thấy các kết quả chưa nhất quán. Trong khi Poyry và Maury (2010), Li và cs. (2009) và Tr ... ài sản (%) Nguyen & cs. (2012). (-) 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Kết quả ước lượng mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn (Mô hình 1, 3, 5) và ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ này (Mô hình 2, 4) bằng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) được trình bày chi tiết trong Bảng 3. Trước khi xem xét ảnh hưởng của tỉ lệ sở hữu nhà nước lên cấu trúc vốn của các công ty cổ phần có vốn nhà nước ở Việt Nam, việc kiểm định sự phù hợp của mô hình hồi quy được thực hiện. Bảng 3. Kết quả ước lượng mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn (Mô hình 1, 3, 5) và ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ này (Mô hình 2, 4) Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 3 Mô hình 4 Mô hình 5 Hệ số b Giá trị t Hệ số b Giá trị t Hệ số b Giá trị t Hệ số b Giá trị t Hệ số b Giá trị t Biến độc lập State - 0,043 ** - 2,16 0 - 0,123 *** - 3,50 0 0,073 1,09 0 State*Nam CEO 0,084 *** 2,64 0 D_State - 1,575 * - 1,94 0 - 5,694 ** - 2,38 0 D_State*N amCEO 4,351 * 1,81 0 State2 -0,001 - 1,80 0 Biến kiểm soát An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 1 – 11 8 L_asset 4,189 *** 16,0 80 4,165 *** 15,9 90 4,214 *** 16,1 40 4,192 *** 16,0 50 4,208 *** 16,1 90 Fix_asset - 46,33 0*** - 26,5 00 - 46,12 8*** - 26,3 80 - 46,38 5*** - 26,5 60 - 46,30 1*** - 26,5 10 - 45,99 1*** - 26,0 70 Liquid - 43,44 0*** - 17,5 30 - 43,19 2*** - 17,3 90 - 43,48 4*** - 17,5 60 - 43,38 2*** - 17,5 10 - 43,35 8*** - 17,5 00 Hằng số 38,05 4*** 11,7 50 38,26 5*** 11,8 20 36,70 7*** 11,7 00 36,90 7*** 11,7 70 35,54 7*** 10,1 30 Số quan sát 2.888 2.888 2.888 2.888 2.888 F( 5, 2883) 325,2 80 264,5 20 324,3 30 260,1 00 263,6 10 Prob > F 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 R2 29,68 % 29,83 % 29,65 % 29,72 % 29,77 % Root MSE 21,69 5 21,67 5 21,69 9 21,69 2 21,68 5 Ghi chú: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% (Nguồn: Tính toán từ 2.888 công ty cổ phần có vốn nhà nước trong bộ dữ liệu Điều tra doanh nghiệp 2010 của Tổng cục Thống kê) Đầu tiên, kết quả kiểm định Breusch-Pagan cho thấy (kết quả chi tiết của kiểm định Breusch- Pagan không được đề cập ở bài viết này, nhưng có thể yêu cầu cung cấp từ tác giả) các mô hình hồi quy đều bị hiện tượng phương sai sai số thay đổi (vi phạm giả định phương sai sai số không đổi). Do đó, để đảm bảo các ước lượng này có phương sai sai số đồng nhất, nghiên cứu này ước lượng lại các mô hình hồi quy sử dụng sai số chuẩn điều chỉnh của White (White robust standard error). Kế đó, hiện tượng đa cộng tuyến trong các mô hình cũng được xem xét. Thống kê đa cộng tuyến của các mô hình đều nhỏ hơn 10 (trừ mô hình 5 với giá trị VIF của biến State = 11.13 và State2 = 11,20). Do đó, giả thuyết các mô hình (trừ Mô hình 5) có hiện tượng đa cộng tuyến bị bác bỏ (Mai Văn Nam & cs., 2006). Ngoài ra, độ phù hợp của mô hình hồi quy thông qua hệ số R2 cũng được xem xét. Kết quả ước lượng các mô hình hồi quy sử dụng sai số chuẩn điều chỉnh của White cho giá trị R2 tương đương 29%. Với mức ý nghĩa của kiểm định F rất nhỏ (< 1%), giả thuyết H0 cho rằng R2 = 0 bị bác bỏ. Điều này có nghĩa là 29% sự biến động của cấu trúc vốn là do tác động của biến độc lập và biến kiểm soát được đưa vào mô hình. Mô hình (1) cho thấy rằng, tỉ lệ sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn của các công ty cổ phần có vốn nhà nước ở Việt Nam có mối quan hệ ngược chiều. Bên cạnh đó, Mô hình (3) cũng chỉ ra rằng, tỉ lệ nợ trên tổng tài sản (cấu trúc vốn) sẽ thấp hơn đối với các công ty mà nhà nước nắm tỉ lệ sở hữu An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 1 – 11 9 chi phối (≥ 50%) so với các công ty mà nhà nước nắm ít hơn 50% vốn chủ sở hữu. Do đó giả thuyết H1 và H2 được chấp nhận. Trong khi đó, nghiên cứu này không tìm được bằng chứng về mối quan hệ phi tuyết tính giữa tỉ lệ sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn của các công ty cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam (Xem Mô hình (5) trong Bảng 3). Do đó, giả thuyết H4 không được chấp nhận. Các kết luận từ 03 mô hình trên phù hợp với kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Hardiyanto và cs. (2013) khi cho rằng, tỉ lệ sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn có mối quan hệ ngược chiều, nghĩa là, khi tỉ lệ sở hữu nhà nước càng cao, mức độ sử dụng nợ (tỉ lệ nợ trên tổng tài sản) càng thấp. Lý giải cho điều này, lý thuyết Đại diện (Jensen & Meckling, 1976; Fama, 1980) biện luận rằng, khi có sự sở hữu tập trung, chi phí đại diện của vốn cổ phần sẽ giảm, do đó công ty không cần sử dụng nợ như một biện pháp để giảm khoản chi chí này. Dù một số nghiên cứu cho rằng, sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn có mối quan hệ thuận chiều (Poyry & Maury, 2010; Li & cs., 2009) với lý giải rằng các công ty được kiểm soát bởi nhà nước dễ dàng tiếp cận được vốn vay nhờ mối quan hệ và sự đối xử ưu đãi hơn của các ngân hàng cũng được kiểm soát bởi nhà nước. Tuy nhiên, việc dễ dàng tiếp cận thị trường nợ vay với quyết định có sử dụng nợ vay nhiều hay không là hai vấn đề khác nhau. Xét trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam với tỉ lệ sở hữu khá tập trung của cổ đông nhà nước, các quyết định về tài chính công ty, trong đó có quyết định về sử dụng nợ vay, nhiều khả năng bị chi phối bởi các quy định và chính sách của các Bộ chủ quản có liên quan, giống như giải thích của Hardiyanto và cs. (2015), García- Teruel và Martínez-Solano (2010) khi cho rằng, công ty do nhà nước kiểm soát thường chịu sự can thiệp về chính sách cấu trúc vốn, và do đó, các công ty này thường sử dụng nợ vay một cách cẩn trọng. Bên cạnh đó, Okuda và Lai (2010) đã kết luận rằng, các công ty được kiểm soát bởi chính phủ ít có động lực trong việc sử dụng nợ vay để tiết kiệm thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, các nghiên cứu trước đây chưa xem xét mối quan hệ này trong sự ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO. Đây cũng được xem là một yếu tố có ảnh hưởng đáng kể lên quyết định cấu trúc vốn. Do đó, để có cái nhìn sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn của các công ty cổ phần có vốn nhà nước ở Việt Nam, ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ này được xem xét trong Mô hình (2) và (4). Kết quả ước lượng cho thấy, giới tính nam của CEO sẽ làm hạn chế mối quan hệ ngược chiều giữa tỉ lệ sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn của các công ty. Điều này có nghĩa là, khi CEO của công ty là nam giới, mức độ sử dụng nợ vay sẽ cao hơn so với các đồng nghiệp là nữ giới, và do đó, làm tăng tỉ lệ nợ trên tổng tài sản, dù sở hữu nhà nước ở mức cao đã hạn chế tỉ lệ nợ. Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn sẽ mạnh hơn đối với các công ty mà nhà nước nắm quyền chi phối (tỉ lệ sở hữu ≥ 50%). Do đó, một hàm ý về chính sách ở đây là, đối với các công ty cổ phần có vốn nhà nước ở Việt Nam mà nhà nước không nắm cổ phần chi phối (< 50%), hội đồng quản trị công ty có thể xem xét bổ nhiệm một nữ CEO để giảm mức sử dụng nợ, từ đó giúp giảm rủi ro phá sản. Bởi vì, khi nhà nước không nắm cổ phần chi phối (< 50%), kết quả thống kê cho thấy, mức sử dụng nợ sẽ cao hơn, nếu công ty đó được điều hành bởi nam CEO, ảnh hưởng tương tác sẽ làm cho mức sử dụng nợ tăng lên, và từ đó gia tăng rủi ro phá sản. Còn trong trường hợp tỉ lệ sở hữu nhà nước ở mức cao (≥ 50%), kết quả thống kê cho thấy mức sử dụng nợ thấp hơn, và ảnh hưởng tương tác của nam CEO làm gia tăng tỉ lệ nợ, điều này cũng góp phần giảm chi phí đại diện của vốn chủ sở hữu, vì một phần chi phí đại diện đã được chuyển sang cho chủ nợ, từ đó, làm tăng hiệu quả quản trị công ty (Jensen & Meckling, 1976). 5. KẾT LUẬN Nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của tỉ lệ sở hữu nhà nước lên cấu trúc vốn và ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ này, An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 1 – 11 10 dựa trên mẫu quan sát bao gồm 2.888 công ty cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam, trích từ bộ dữ liệu Điều tra doanh nghiệp 2010 được thực hiện bởi Tổng cục Thống kê. Cấu trúc vốn của các công ty là tỉ lệ nợ trên tổng tài sản. Nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy bằng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) để kiểm định các giả thuyết được đề xuất. Kết quả ước lượng cho thấy, tỉ lệ sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn (tỉ lệ nợ trên tổng tài sản) có mối quan hệ ngược chiều, nghĩa là, tỉ lệ sở hữu nhà nước càng cao, mức độ sử dụng nợ càng thấp. Bên cạnh đó, tỉ lệ nợ trên tổng tài sản của các công ty cổ phần có vốn nhà nước ở Việt Nam sẽ thấp hơn trong trường hợp nhà nước nắm cổ phần chi phối (≥ 50%). Kết luận này phù hợp với giải thích của Lý thuyết Đại diện (Agency Theory) được đề xuất bởi Jensen và Meckling (1976), Fama (1980). Ngoài ra, kết quả ước lượng còn cho thấy rằng, giới tính CEO có ảnh hưởng tương tác lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn, trong đó, CEO của công ty là nam giới sẽ làm hạn chế mối quan hệ ngược chiều này. Điều này hàm ý rằng, đối với các công ty cổ phần có vốn nhà nước ở Việt Nam mà nhà nước không nắm cổ phần chi phối (< 50%), hội đồng quản trị công ty có thể bổ nhiệm một nữ CEO để giảm mức sử dụng nợ vay. Vì tận dụng bộ dữ liệu có sẵn, nên các kết luận trong nghiên cứu này có thể bị hạn chế. Các nghiên cứu tương lai nên mở rộng thời gian quan sát để có đánh giá chính xác hơn về mối quan hệ này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Antoniou, A., Guney, Y., & Paudyal, K. (2002). The determinants of corporate capital structure: Evidence from European countries. University of Durham, Department of Economics and Finance. Biger, N., Nguyen, N.V. & Hoang, Q. X. (2007). The determinants of capital structure: Evidence from Vietnam. In Kim, S.J. and Mckenzie, M.D. (Ed.). Asia-Pacific financial markets: Integration, innovation and challenges (pp. 307-326). Emerald Group Publishing Limited. De La Bruslerie, H., & Latrous, I. (2012). Ownership structure and debt leverage: Empirical test of a trade-off hypothesis on French firms. Journal of Multinational Financial Management, 22(4), 111-130. Faccio, M., Marchica, M. T. & Mura, R. (2015). CEO Gender, Corporate Risk-Taking, and the Efficiency of Capital Allocation. Social Science Research Network. Retrieved on Jan, 16th 2016 from . Fama, E. F. (1980). Agency Problems and the Theory of the Firm. The journal of political economy, 88(2), 288-307. Fraser, D. R., Zhang, H., & Derashid, C. (2006). Capital structure and political patronage: The case of Malaysia. Journal of Banking & Finance, 30(4), 1291-1308. García-Teruel, P. J., & Martínez-Solano, P. (2010). Ownership structure and debt maturity: new evidence from Spain. Review of Quantitative Finance and Accounting, 35(4), 473-491. Hardiyanto, A. T., Achsani, N. A., Sembel, R., & Maulana, N. A. (2015). Ownership And Determinants Capital Structure Of Public Listed Companies In Indonesia: a Panel Data Analysis. International Research Journal of Business Studies, 6(1), 29-43. Hoang, C. T., Abeysekera, I., & Ma, S. (June, 2014). State ownership and earnings management: empirical evidence from Vietnamese listed firms. Paper presented at the meeting of The International Conference on Finance and Economics, Ho Chi Minh, Viet Nam. Huang, G. (2006). The determinants of capital structure: Evidence from China. China Economic Review, 17(1), 14-36. An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 1 – 11 11 Huang, J. & Kisgen, D. J. (2013). Gender and corporate finance: Are male executives overconfident relative to female executives?. Journal of Financial Economics, 108(3), 822- 839. Ilman, M., Zakaria, A., Nindito, M. (2011). The influences of micro and macro variables toward financial distress condition on manufacture companies listed in Indonesia stock exchange in 2009. Paper presented at the meeting of The 3rd International Conference on Humanities and Social Science, Songkla, Indonesia. Jensen, M. C. & Meckling, W. H. (1976). Theory of the firm: Managerial behavior, agency costs and ownership structure. Journal of Financial Economics, 3(4), 305–360. Li, K., Yue, H., & Zhao, L. (2009). Ownership, institutions, and capital structure: Evidence from China. Journal of Comparative Economics, 37(3), 471-490. Mai Văn Nam., Phạm Lê Thông., Lê Tấn Nghiêm. & Nguyễn Văn Ngân. (2006). Giáo trình Kinh tế lượng. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Thống kê. Miller, M. H. & Modigliani, F. (1963). Corporate income taxes and the cost of capital: A correction. American Economic Review, 53(3),433–443. Nguyễn Minh Kiều. (2009). Tài chính doanh nghiệp căn bản. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Thống Kê. Nguyen, D. T., Diaz-Rainey, I. & Gregoriou, A. (2012). Financial development and the determinants of capital structure in Vietnam. Working paper, SSRN eLibrary. Okuda, H. & Lai, T. P. N (February, 2010). The determinants of the fundraising structure of listed companies in Vietnam: Estimation of the effects of government ownership. Paper presented at the meeting of Global COE Hi- Stat Discussion Paper, Tokyo, Japan. Poyry, S. & Maury, B. (2010). Influential ownership and capital structure. Managerial and Decision Economics, 31(5), 311–324. Ruan, W., Tian, G., & Ma, S. (2011). Managerial ownership, capital structure and firm value: Evidence from China's civilian-run firms. Australasian Accounting Business & Finance Journal, 5(3), 73. Tran, D. K. N. & Ramachandran, N. (2006). Capital structure in small and medium-sized enterprises: The case of Vietnam. ASEAN Economic Bulletin, 23(2), 192+. Truong, D. L., Lanjouw, G. J., & Lensink, B. W. (2004). The impact of privatisation on firm performance in a transition economy: The case of Vietnam. University of Groningen, Research Institute SOM (Systems, Organisations and Management), No.04C31, 1-33. Trương Đông Lộc. (2009). Ảnh hưởng của việc niêm yết cổ phiếu đến hiệu quả hoạt động và cấu trúc vốn của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu kinh tế, 377(10), 35-42. Trương Đông Lộc & Võ Kiều Trang. (2008). Các yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu kinh tế, 361(6), 20-26. Vu, K. A., Tower, G., & Scully, G. (2011). Corporate communication for Vietnamese listed firms. Asian Review of Accounting, 19(2), 125-146. Zou, H. & Xiao, J. Z. (2006). The financing behaviour of listed Chinese firms. The British Accounting Review, 38(3), 239–258.
File đính kèm:
- anh_huong_tuong_tac_cua_gioi_tinh_ceo_len_moi_quan_he_giua_s.pdf