Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam

Nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan

hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn của các công ty cổ phần có vốn nhà

nước tại Việt Nam. Cấu trúc vốn của công ty được tính bằng tỷ lệ nợ phải trả

trên tổng tài sản. Mẫu quan sát của nghiên cứu này gồm 2.888 công ty cổ phần

có vốn nhà nước, được trích từ bộ dữ liệu Điều tra doanh nghiệp 2010 của

Tổng cục Thống kê. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy theo phương pháp OLS

cho thấy rằng, sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn có mối quan hệ ngược chiều,

đặc biệt là tại các công ty mà nhà nước nắm cổ phần chi phối. Kết quả ước

lượng còn cho thấy rằng, giới tính CEO có ảnh hưởng tương tác lên mối quan

hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn, trong đó, CEO của công ty là nam

giới sẽ làm hạn chế mối quan hệ ngược chiều này.

Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam trang 1

Trang 1

Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam trang 2

Trang 2

Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam trang 3

Trang 3

Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam trang 4

Trang 4

Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam trang 5

Trang 5

Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam trang 6

Trang 6

Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam trang 7

Trang 7

Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam trang 8

Trang 8

Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam trang 9

Trang 9

Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang baonam 12860
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam

Ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn: Trường hợp các công ty Cổ phần có vốn nhà nước tại Việt Nam
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 1 – 11 
1 
ẢNH HƯỞNG TƯƠNG TÁC CỦA GIỚI TÍNH CEO LÊN MỐI QUAN HỆ 
GIỮA SỞ HỮU NHÀ NƯỚC VÀ CẤU TRÚC VỐN: TRƯỜNG HỢP 
CÁC CÔNG TY CỔ PHẦN CÓ VỐN NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM 
Đoàn Vinh Thăng1 
1Trường Đại học An Giang 
Thông tin chung: 
Ngày nhận bài: 18/03/2016 
Ngày nhận kết quả bình duyệt: 
05/05/2016 
Ngày chấp nhận đăng: 06/2017 
Title: 
Moderating effect of CEO 
gender on the relationship 
between state ownership and 
capital structure: the case of 
state-owned corporations in 
Vietnam 
Keywords: 
State ownership, capital 
structure, moderating effect, 
CEO gender, Vietnam 
Từ khóa: 
Sở hữu nhà nước, 
cấu trúc vốn, ảnh hưởng 
tương tác, giới tính CEO, 
Việt Nam 
ABSTRACT 
This paper evaluated the moderating effect of CEOs’ gender on the relationship 
between the state ownership and capital structure: the case of state-owned 
corporations in Vietnam. Capital structure was measured with the debt on total 
asset ratio. The population of this study includes 2,888 state-owned 
corporations quoted from the dataset “Enterprise Survey 2010” of General 
Statistics Office of Viet Nam. The OLS regression model shows that there is a 
statistically significant negative relationship between the state ownership and 
the capital structure of state-owned corporations, especially the corporations 
controlled by the state. The result also indicates that CEOs’ gender has a 
moderating effect on the relationship between state ownership and capital 
structure, in which Male CEOs has restricted this negative relationship. 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan 
hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn của các công ty cổ phần có vốn nhà 
nước tại Việt Nam. Cấu trúc vốn của công ty được tính bằng tỷ lệ nợ phải trả 
trên tổng tài sản. Mẫu quan sát của nghiên cứu này gồm 2.888 công ty cổ phần 
có vốn nhà nước, được trích từ bộ dữ liệu Điều tra doanh nghiệp 2010 của 
Tổng cục Thống kê. Kết quả ước lượng mô hình hồi quy theo phương pháp OLS 
cho thấy rằng, sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn có mối quan hệ ngược chiều, 
đặc biệt là tại các công ty mà nhà nước nắm cổ phần chi phối. Kết quả ước 
lượng còn cho thấy rằng, giới tính CEO có ảnh hưởng tương tác lên mối quan 
hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn, trong đó, CEO của công ty là nam 
giới sẽ làm hạn chế mối quan hệ ngược chiều này. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Sau chương trình Đổi Mới 1986, một cải cách 
kinh tế quan trọng khác đối với Việt Nam là 
chương trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà 
nước đã được thông qua và có hiệu lực thực hiện 
từ 1992. Sau khoảng 20 năm từ khi chương trình 
này được khởi xướng, nhiều doanh nghiệp nhà 
nước đã thực hiện việc chào bán cổ phần cho khu 
vực tư nhân. Tuy nhiên, quá trình này diễn ra khá 
chậm chạp (Truong & cs., 2004). Dù thị trường 
chứng khoán Việt Nam ra đời vào năm 2000 để 
tạo nền tảng cho việc thúc đẩy hoạt động cổ phần 
hóa doanh nghiệp nhà nước, nhưng do luật pháp 
Việt Nam quy định về giới hạn tỷ lệ sở hữu của 
nhà đầu tư nước ngoài (Trước năm 2003, tỉ lệ sở 
hữu nước ngoài tối đa theo luật quy định là 
20% tổng số cổ phần của doanh nghiệp nội địa. 
Tỉ lệ này được nâng lên mức 30% trong giai 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 1 – 11 
2 
đoạn 2003 – 2005 và 49% từ sau khi Luật 
Doanh nghiệp 2005 có hiệu lực), nên trong giai 
đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 - 2009, sở 
hữu của khối ngoại chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong các 
doanh nghiệp ở Việt Nam. Và do đó, vai trò của 
sở hữu nhà nước đối với các quyết định trong 
công ty cổ phần thường chiếm vị trí chi phối vì 
chính phủ còn nắm giữ tỉ trọng lớn cổ phẩn của 
các công ty (Vu & cs., 2011; Hoang & cs., 2014). 
Một trong những quyết định quan trọng đối với 
các công ty cổ phần là quyết định về cấu trúc vốn 
của công ty. Cấu trúc vốn là hỗn hợp của vốn vay 
(nợ) và vốn cổ phần mà công ty sử dụng để tài trợ 
cho hoạt động đầu tư của công ty (Hardiyanto & 
cs., 2015; Trương Đông Lộc & Võ Kiều Trang, 
2008). Nguyễn Minh Kiều (2009, tr. 509) cho 
rằng, công ty sử dụng nợ phù hợp sẽ gia tăng lợi 
nhuận cho cổ đông. Bởi vì, một trong những lợi 
ích của nợ đó là lá chắn thuế (Trương Đông Lộc 
& Võ Kiều Trang, 2008; Miller & Modifliani, 
1963). Tuy nhiên, công ty có thể gặp rủi ro phá 
sản nếu sử dụng nợ quá mức và mất khả năng chi 
trả (Hardiyanto & cs., 2015; Trương Đông Lộc & 
Võ Kiều Trang, 2008), đặc biệt là trong giai đoạn 
khủng hoảng tài chính (Ilman & cs., 2011). 
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng có mối quan hệ 
giữa tỉ lệ sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn của các 
công ty cổ phần niêm yết (Li & cs., 2009; Trương 
Đông Lộc, 2009; Poyry & Maury, 2010; 
Hardiyanto & cs., 2015), trong đó, cấu trúc vốn 
được đo lường bằng tỉ lệ nợ trên tổng tài sản. Tuy 
nhiên, các nghiên cứu này cho thấy các kết quả 
chưa nhất quán. Trong khi Poyry và Maury 
(2010), Li và cs. (2009) và Tr ... ài sản (%) 
Nguyen & cs. (2012). (-) 
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Kết quả ước lượng mối quan hệ giữa sở hữu nhà 
nước và cấu trúc vốn (Mô hình 1, 3, 5) và ảnh 
hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan 
hệ này (Mô hình 2, 4) bằng phương pháp bình 
phương bé nhất (OLS) được trình bày chi tiết 
trong Bảng 3. Trước khi xem xét ảnh hưởng của tỉ 
lệ sở hữu nhà nước lên cấu trúc vốn của các công 
ty cổ phần có vốn nhà nước ở Việt Nam, việc 
kiểm định sự phù hợp của mô hình hồi quy được 
thực hiện. 
Bảng 3. Kết quả ước lượng mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn (Mô hình 1, 3, 5) và ảnh hưởng 
tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ này (Mô hình 2, 4) 
 Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 3 Mô hình 4 Mô hình 5 
Hệ số 
b 
Giá 
trị t 
Hệ số 
b 
Giá 
trị t 
Hệ số 
b 
Giá 
trị t 
Hệ số 
b 
Giá 
trị t 
Hệ số 
b 
Giá 
trị t 
Biến độc 
lập 
State 
-
0,043
** 
-
2,16
0 
-
0,123
*** 
-
3,50
0 0,073 
1,09
0 
State*Nam
CEO 
0,084
*** 
2,64
0 
D_State 
-
1,575
* 
-
1,94
0 
-
5,694
** 
-
2,38
0 
D_State*N
amCEO 
4,351
* 
1,81
0 
State2 -0,001 
-
1,80
0 
Biến kiểm soát 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 1 – 11 
8 
L_asset 
4,189
*** 
16,0
80 
4,165
*** 
15,9
90 
4,214
*** 
16,1
40 
4,192
*** 
16,0
50 
4,208
*** 
16,1
90 
Fix_asset 
-
46,33
0*** 
-
26,5
00 
-
46,12
8*** 
-
26,3
80 
-
46,38
5*** 
-
26,5
60 
-
46,30
1*** 
-
26,5
10 
-
45,99
1*** 
-
26,0
70 
Liquid 
-
43,44
0*** 
-
17,5
30 
-
43,19
2*** 
-
17,3
90 
-
43,48
4*** 
-
17,5
60 
-
43,38
2*** 
-
17,5
10 
-
43,35
8*** 
-
17,5
00 
Hằng số 
38,05
4*** 
11,7
50 
38,26
5*** 
11,8
20 
36,70
7*** 
11,7
00 
36,90
7*** 
11,7
70 
35,54
7*** 
10,1
30 
Số quan 
sát 2.888 2.888 2.888 2.888 2.888 
F( 5, 
2883) 
325,2
80 
264,5
20 
324,3
30 
260,1
00 
263,6
10 
Prob > F 0,000 0,000 0,000 0,000 0,000 
R2 
29,68
% 
29,83
% 
29,65
% 
29,72
% 
29,77
% 
Root MSE 
21,69
5 
21,67
5 
21,69
9 
21,69
2 
21,68
5 
Ghi chú: ***, **, * tương ứng với mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% 
(Nguồn: Tính toán từ 2.888 công ty cổ phần có vốn nhà nước trong bộ dữ liệu Điều tra doanh nghiệp 2010 của Tổng cục 
Thống kê)
Đầu tiên, kết quả kiểm định Breusch-Pagan cho 
thấy (kết quả chi tiết của kiểm định Breusch-
Pagan không được đề cập ở bài viết này, nhưng 
có thể yêu cầu cung cấp từ tác giả) các mô hình 
hồi quy đều bị hiện tượng phương sai sai số thay 
đổi (vi phạm giả định phương sai sai số không 
đổi). Do đó, để đảm bảo các ước lượng này có 
phương sai sai số đồng nhất, nghiên cứu này ước 
lượng lại các mô hình hồi quy sử dụng sai số 
chuẩn điều chỉnh của White (White robust 
standard error). Kế đó, hiện tượng đa cộng tuyến 
trong các mô hình cũng được xem xét. Thống kê 
đa cộng tuyến của các mô hình đều nhỏ hơn 10 
(trừ mô hình 5 với giá trị VIF của biến State = 
11.13 và State2 = 11,20). Do đó, giả thuyết các mô 
hình (trừ Mô hình 5) có hiện tượng đa cộng tuyến 
bị bác bỏ (Mai Văn Nam & cs., 2006). Ngoài ra, 
độ phù hợp của mô hình hồi quy thông qua hệ số 
R2 cũng được xem xét. Kết quả ước lượng các mô 
hình hồi quy sử dụng sai số chuẩn điều chỉnh của 
White cho giá trị R2 tương đương 29%. Với mức 
ý nghĩa của kiểm định F rất nhỏ (< 1%), giả 
thuyết H0 cho rằng R2 = 0 bị bác bỏ. Điều này có 
nghĩa là 29% sự biến động của cấu trúc vốn là do 
tác động của biến độc lập và biến kiểm soát được 
đưa vào mô hình. 
Mô hình (1) cho thấy rằng, tỉ lệ sở hữu nhà nước 
và cấu trúc vốn của các công ty cổ phần có vốn 
nhà nước ở Việt Nam có mối quan hệ ngược 
chiều. Bên cạnh đó, Mô hình (3) cũng chỉ ra rằng, 
tỉ lệ nợ trên tổng tài sản (cấu trúc vốn) sẽ thấp hơn 
đối với các công ty mà nhà nước nắm tỉ lệ sở hữu 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 1 – 11 
9 
chi phối (≥ 50%) so với các công ty mà nhà nước 
nắm ít hơn 50% vốn chủ sở hữu. Do đó giả thuyết 
H1 và H2 được chấp nhận. Trong khi đó, nghiên 
cứu này không tìm được bằng chứng về mối quan 
hệ phi tuyết tính giữa tỉ lệ sở hữu nhà nước và cấu 
trúc vốn của các công ty cổ phần có vốn nhà nước 
tại Việt Nam (Xem Mô hình (5) trong Bảng 3). 
Do đó, giả thuyết H4 không được chấp nhận. Các 
kết luận từ 03 mô hình trên phù hợp với kết quả 
nghiên cứu thực nghiệm của Hardiyanto và cs. 
(2013) khi cho rằng, tỉ lệ sở hữu nhà nước và cấu 
trúc vốn có mối quan hệ ngược chiều, nghĩa là, 
khi tỉ lệ sở hữu nhà nước càng cao, mức độ sử 
dụng nợ (tỉ lệ nợ trên tổng tài sản) càng thấp. Lý 
giải cho điều này, lý thuyết Đại diện (Jensen & 
Meckling, 1976; Fama, 1980) biện luận rằng, khi 
có sự sở hữu tập trung, chi phí đại diện của vốn cổ 
phần sẽ giảm, do đó công ty không cần sử dụng 
nợ như một biện pháp để giảm khoản chi chí này. 
Dù một số nghiên cứu cho rằng, sở hữu nhà nước 
và cấu trúc vốn có mối quan hệ thuận chiều 
(Poyry & Maury, 2010; Li & cs., 2009) với lý giải 
rằng các công ty được kiểm soát bởi nhà nước dễ 
dàng tiếp cận được vốn vay nhờ mối quan hệ và 
sự đối xử ưu đãi hơn của các ngân hàng cũng 
được kiểm soát bởi nhà nước. Tuy nhiên, việc dễ 
dàng tiếp cận thị trường nợ vay với quyết định có 
sử dụng nợ vay nhiều hay không là hai vấn đề 
khác nhau. Xét trong bối cảnh nền kinh tế Việt 
Nam với tỉ lệ sở hữu khá tập trung của cổ đông 
nhà nước, các quyết định về tài chính công ty, 
trong đó có quyết định về sử dụng nợ vay, nhiều 
khả năng bị chi phối bởi các quy định và chính 
sách của các Bộ chủ quản có liên quan, giống như 
giải thích của Hardiyanto và cs. (2015), García-
Teruel và Martínez-Solano (2010) khi cho rằng, 
công ty do nhà nước kiểm soát thường chịu sự can 
thiệp về chính sách cấu trúc vốn, và do đó, các 
công ty này thường sử dụng nợ vay một cách cẩn 
trọng. Bên cạnh đó, Okuda và Lai (2010) đã kết 
luận rằng, các công ty được kiểm soát bởi chính 
phủ ít có động lực trong việc sử dụng nợ vay để 
tiết kiệm thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, 
các nghiên cứu trước đây chưa xem xét mối quan 
hệ này trong sự ảnh hưởng tương tác của giới tính 
CEO. Đây cũng được xem là một yếu tố có ảnh 
hưởng đáng kể lên quyết định cấu trúc vốn. 
Do đó, để có cái nhìn sâu sắc hơn về mối quan hệ 
giữa sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn của các 
công ty cổ phần có vốn nhà nước ở Việt Nam, ảnh 
hưởng tương tác của giới tính CEO lên mối quan 
hệ này được xem xét trong Mô hình (2) và (4). 
Kết quả ước lượng cho thấy, giới tính nam của 
CEO sẽ làm hạn chế mối quan hệ ngược chiều 
giữa tỉ lệ sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn của các 
công ty. Điều này có nghĩa là, khi CEO của công 
ty là nam giới, mức độ sử dụng nợ vay sẽ cao hơn 
so với các đồng nghiệp là nữ giới, và do đó, làm 
tăng tỉ lệ nợ trên tổng tài sản, dù sở hữu nhà nước 
ở mức cao đã hạn chế tỉ lệ nợ. Ảnh hưởng tương 
tác của giới tính CEO lên mối quan hệ giữa sở 
hữu nhà nước và cấu trúc vốn sẽ mạnh hơn đối 
với các công ty mà nhà nước nắm quyền chi phối 
(tỉ lệ sở hữu ≥ 50%). 
Do đó, một hàm ý về chính sách ở đây là, đối với 
các công ty cổ phần có vốn nhà nước ở Việt Nam 
mà nhà nước không nắm cổ phần chi phối (< 
50%), hội đồng quản trị công ty có thể xem xét bổ 
nhiệm một nữ CEO để giảm mức sử dụng nợ, từ 
đó giúp giảm rủi ro phá sản. Bởi vì, khi nhà nước 
không nắm cổ phần chi phối (< 50%), kết quả 
thống kê cho thấy, mức sử dụng nợ sẽ cao hơn, 
nếu công ty đó được điều hành bởi nam CEO, ảnh 
hưởng tương tác sẽ làm cho mức sử dụng nợ tăng 
lên, và từ đó gia tăng rủi ro phá sản. Còn trong 
trường hợp tỉ lệ sở hữu nhà nước ở mức cao (≥ 
50%), kết quả thống kê cho thấy mức sử dụng nợ 
thấp hơn, và ảnh hưởng tương tác của nam CEO 
làm gia tăng tỉ lệ nợ, điều này cũng góp phần 
giảm chi phí đại diện của vốn chủ sở hữu, vì một 
phần chi phí đại diện đã được chuyển sang cho 
chủ nợ, từ đó, làm tăng hiệu quả quản trị công ty 
(Jensen & Meckling, 1976). 
5. KẾT LUẬN 
Nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của tỉ lệ sở 
hữu nhà nước lên cấu trúc vốn và ảnh hưởng 
tương tác của giới tính CEO lên mối quan hệ này, 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 1 – 11 
10 
dựa trên mẫu quan sát bao gồm 2.888 công ty cổ 
phần có vốn nhà nước tại Việt Nam, trích từ bộ dữ 
liệu Điều tra doanh nghiệp 2010 được thực hiện 
bởi Tổng cục Thống kê. Cấu trúc vốn của các 
công ty là tỉ lệ nợ trên tổng tài sản. Nghiên cứu 
này sử dụng mô hình hồi quy bằng phương pháp 
bình phương bé nhất (OLS) để kiểm định các giả 
thuyết được đề xuất. Kết quả ước lượng cho thấy, 
tỉ lệ sở hữu nhà nước và cấu trúc vốn (tỉ lệ nợ trên 
tổng tài sản) có mối quan hệ ngược chiều, nghĩa 
là, tỉ lệ sở hữu nhà nước càng cao, mức độ sử 
dụng nợ càng thấp. Bên cạnh đó, tỉ lệ nợ trên tổng 
tài sản của các công ty cổ phần có vốn nhà nước ở 
Việt Nam sẽ thấp hơn trong trường hợp nhà nước 
nắm cổ phần chi phối (≥ 50%). Kết luận này phù 
hợp với giải thích của Lý thuyết Đại diện (Agency 
Theory) được đề xuất bởi Jensen và Meckling 
(1976), Fama (1980). Ngoài ra, kết quả ước lượng 
còn cho thấy rằng, giới tính CEO có ảnh hưởng 
tương tác lên mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước 
và cấu trúc vốn, trong đó, CEO của công ty là 
nam giới sẽ làm hạn chế mối quan hệ ngược chiều 
này. Điều này hàm ý rằng, đối với các công ty cổ 
phần có vốn nhà nước ở Việt Nam mà nhà nước 
không nắm cổ phần chi phối (< 50%), hội đồng 
quản trị công ty có thể bổ nhiệm một nữ CEO để 
giảm mức sử dụng nợ vay. Vì tận dụng bộ dữ liệu 
có sẵn, nên các kết luận trong nghiên cứu này có 
thể bị hạn chế. Các nghiên cứu tương lai nên mở 
rộng thời gian quan sát để có đánh giá chính xác 
hơn về mối quan hệ này. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Antoniou, A., Guney, Y., & Paudyal, K. 
(2002). The determinants of corporate capital 
structure: Evidence from European countries. 
University of Durham, Department of 
Economics and Finance. 
Biger, N., Nguyen, N.V. & Hoang, Q. X. (2007). 
The determinants of capital structure: 
Evidence from Vietnam. In Kim, S.J. and 
Mckenzie, M.D. (Ed.). Asia-Pacific financial 
markets: Integration, innovation and 
challenges (pp. 307-326). Emerald Group 
Publishing Limited. 
De La Bruslerie, H., & Latrous, I. (2012). 
Ownership structure and debt leverage: 
Empirical test of a trade-off hypothesis on 
French firms. Journal of Multinational 
Financial Management, 22(4), 111-130. 
Faccio, M., Marchica, M. T. & Mura, R. (2015). 
CEO Gender, Corporate Risk-Taking, and the 
Efficiency of Capital Allocation. Social 
Science Research Network. 
Retrieved on Jan, 16th 2016 from 
. 
Fama, E. F. (1980). Agency Problems and the 
Theory of the Firm. The journal of political 
economy, 88(2), 288-307. 
Fraser, D. R., Zhang, H., & Derashid, C. (2006). 
Capital structure and political patronage: The 
case of Malaysia. Journal of Banking & 
Finance, 30(4), 1291-1308. 
García-Teruel, P. J., & Martínez-Solano, P. 
(2010). Ownership structure and debt 
maturity: new evidence from Spain. Review of 
Quantitative Finance and Accounting, 35(4), 
473-491. 
Hardiyanto, A. T., Achsani, N. A., Sembel, R., & 
Maulana, N. A. (2015). Ownership And 
Determinants Capital Structure Of Public 
Listed Companies In Indonesia: a Panel Data 
Analysis. International Research Journal of 
Business Studies, 6(1), 29-43. 
Hoang, C. T., Abeysekera, I., & Ma, S. (June, 
2014). State ownership and earnings 
management: empirical evidence from 
Vietnamese listed firms. Paper presented at 
the meeting of The International Conference 
on Finance and Economics, Ho Chi Minh, 
Viet Nam. 
Huang, G. (2006). The determinants of capital 
structure: Evidence from China. China 
Economic Review, 17(1), 14-36. 
An Giang University Journal of Science – 2017, Vol. 15 (3), 1 – 11 
11 
Huang, J. & Kisgen, D. J. (2013). Gender and 
corporate finance: Are male executives 
overconfident relative to female executives?. 
Journal of Financial Economics, 108(3), 822-
839. 
Ilman, M., Zakaria, A., Nindito, M. (2011). The 
influences of micro and macro variables 
toward financial distress condition on 
manufacture companies listed in Indonesia 
stock exchange in 2009. Paper presented at 
the meeting of The 3rd International 
Conference on Humanities and Social 
Science, Songkla, Indonesia. 
Jensen, M. C. & Meckling, W. H. (1976). Theory 
of the firm: Managerial behavior, agency 
costs and ownership structure. Journal of 
Financial Economics, 3(4), 305–360. 
Li, K., Yue, H., & Zhao, L. (2009). Ownership, 
institutions, and capital structure: Evidence 
from China. Journal of Comparative 
Economics, 37(3), 471-490. 
Mai Văn Nam., Phạm Lê Thông., Lê Tấn Nghiêm. 
& Nguyễn Văn Ngân. (2006). Giáo trình 
Kinh tế lượng. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản 
Thống kê. 
Miller, M. H. & Modigliani, F. (1963). Corporate 
income taxes and the cost of capital: A 
correction. American Economic Review, 
53(3),433–443. 
Nguyễn Minh Kiều. (2009). Tài chính doanh 
nghiệp căn bản. Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản 
Thống Kê. 
Nguyen, D. T., Diaz-Rainey, I. & Gregoriou, A. 
(2012). Financial development and the 
determinants of capital structure in Vietnam. 
Working paper, SSRN eLibrary. 
Okuda, H. & Lai, T. P. N (February, 2010). The 
determinants of the fundraising structure of 
listed companies in Vietnam: Estimation of 
the effects of government ownership. Paper 
presented at the meeting of Global COE Hi-
Stat Discussion Paper, Tokyo, Japan. 
Poyry, S. & Maury, B. (2010). Influential 
ownership and capital structure. Managerial 
and Decision Economics, 31(5), 311–324. 
Ruan, W., Tian, G., & Ma, S. (2011). Managerial 
ownership, capital structure and firm value: 
Evidence from China's civilian-run 
firms. Australasian Accounting Business & 
Finance Journal, 5(3), 73. 
Tran, D. K. N. & Ramachandran, N. (2006). 
Capital structure in small and medium-sized 
enterprises: The case of Vietnam. ASEAN 
Economic Bulletin, 23(2), 192+. 
Truong, D. L., Lanjouw, G. J., & Lensink, B. W. 
(2004). The impact of privatisation on firm 
performance in a transition economy: The 
case of Vietnam. University of Groningen, 
Research Institute SOM (Systems, 
Organisations and Management), No.04C31, 
1-33. 
Trương Đông Lộc. (2009). Ảnh hưởng của việc 
niêm yết cổ phiếu đến hiệu quả hoạt động và 
cấu trúc vốn của các công ty niêm yết trên thị 
trường chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu 
kinh tế, 377(10), 35-42. 
Trương Đông Lộc & Võ Kiều Trang. (2008). Các 
yếu tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của các 
công ty cổ phần niêm yết trên thị trường 
chứng khoán Việt Nam. Nghiên cứu kinh 
tế, 361(6), 20-26. 
Vu, K. A., Tower, G., & Scully, G. (2011). 
Corporate communication for Vietnamese 
listed firms. Asian Review of 
Accounting, 19(2), 125-146. 
Zou, H. & Xiao, J. Z. (2006). The financing 
behaviour of listed Chinese firms. The British 
Accounting Review, 38(3), 239–258. 

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_tuong_tac_cua_gioi_tinh_ceo_len_moi_quan_he_giua_s.pdf