Ảnh hưởng của cách mạng 4.0 tới công tác xuất khẩu lao động Việt Nam sang thị trường Đài Loan (Trung Quốc)
Đài Loan (Trung Quốc) là một trong các thị trường trọng điểm xuất khẩu lao động của
nước ta. Sau 18 năm thực hiện Thỏa thuận về gửi và tiếp nhận lao động Việt Nam sang Đài
Loan (Trung Quốc) làm việc, quy mô lao động Việt Nam hàng năm sang làm việc tại thị
trường này luôn chiếm tỷ trọng cao so với tổng số lao động Việt Nam đưa đi làm việc tại
nước ngoài. Trước nguy cơ phá vỡ thị trường lao động hiện nay khi cách mạng công nghiệp
lần thứ 4 diễn ra thì việc xuất khẩu lao động, đặc biệt sang các thị trường truyền thống như
Đài Loan (Trung Quốc) với những ngành nghề mà máy móc, công nghệ khó thay thế như
khán hộ công gia đình, hộ lý, đánh bắt cá xa bờ, càng cần được duy trì ổn định và phát
triển. Tuy nhiên, việc quản lý lao động Việt Nam sang Đài Loan (Trung Quốc) hiện còn nhiều
bất cập. Bài viết cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam tại
Đài Loan (Trung Quốc) trong những năm gần đây, những hạn chế, bất cập trong quản lý lao
động sang làm việc tại Đài Loan (Trung Quốc), yêu cầu của lao động Đài Loan (Trung Quốc)
dưới tác động của cách mạng 4.0, từ đó đề ra giải pháp để quản lý và phát triển thị trường lao
động này. Giải quyết được những khó khăn, bất cập của thị trường Đài Loan (Trung Quốc) sẽ
góp phần ổn định thị trường lao động nước ta trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Từ khóa: xuất khẩu lao động, Đài Loan (Trung Quốc), bất cập, quản lý lao động, giải
pháp phát triển, cách mạng công nghiệp 4.0.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ảnh hưởng của cách mạng 4.0 tới công tác xuất khẩu lao động Việt Nam sang thị trường Đài Loan (Trung Quốc)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 424 ẢNH HƢỞNG CỦA CÁCH MẠNG 4.0 TỚI CÔNG TÁC XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VIỆT NAM SANG THỊ TRƢỜNG ĐÀI LOAN (TRUNG QUỐC) ThS. Lê Thị Nhƣ Quỳnh Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Bạch Đằng TÓM TẮT VÀ TỪ KHÓA Đài Loan (Trung Quốc) là một trong các thị trường trọng điểm xuất khẩu lao động của nước ta. Sau 18 năm thực hiện Thỏa thuận về gửi và tiếp nhận lao động Việt Nam sang Đài Loan (Trung Quốc) làm việc, quy mô lao động Việt Nam hàng năm sang làm việc tại thị trường này luôn chiếm tỷ trọng cao so với tổng số lao động Việt Nam đưa đi làm việc tại nước ngoài. Trước nguy cơ phá vỡ thị trường lao động hiện nay khi cách mạng công nghiệp lần thứ 4 diễn ra thì việc xuất khẩu lao động, đặc biệt sang các thị trường truyền thống như Đài Loan (Trung Quốc) với những ngành nghề mà máy móc, công nghệ khó thay thế như khán hộ công gia đình, hộ lý, đánh bắt cá xa bờ, càng cần được duy trì ổn định và phát triển. Tuy nhiên, việc quản lý lao động Việt Nam sang Đài Loan (Trung Quốc) hiện còn nhiều bất cập. Bài viết cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình xuất khẩu lao động Việt Nam tại Đài Loan (Trung Quốc) trong những năm gần đây, những hạn chế, bất cập trong quản lý lao động sang làm việc tại Đài Loan (Trung Quốc), yêu cầu của lao động Đài Loan (Trung Quốc) dưới tác động của cách mạng 4.0, từ đó đề ra giải pháp để quản lý và phát triển thị trường lao động này. Giải quyết được những khó khăn, bất cập của thị trường Đài Loan (Trung Quốc) sẽ góp phần ổn định thị trường lao động nước ta trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Từ khóa: xuất khẩu lao động, Đài Loan (Trung Quốc), bất cập, quản lý lao động, giải pháp phát triển, cách mạng công nghiệp 4.0. 1.MỞ ĐẦU Đài Loan (Trung Quốc) là một thị trường có số lượng lao động Việt Nam lựa chọn nhiều nhất. Theo số liệu thống kê, số lượng lao động tại Đài Loan (Trung Quốc) năm 2014 là trên 62.000 lao động. Trong khi đó, thị trường Nhật Bản có khoảng gần 20.000 người và thị trường Hàn Quốc có gần 7.000 người. Trong năm 2014, lao động Việt Nam làm việc tại Đài Loan (Trung Quốc) chiếm số lượng nhiều nhất so với các nước trong khu vực [1]. Nhu cầu cung ứng và tiếp nhận lao động được nhận định sẽ tiếp tục tăng cao trong các năm tiếp theo là động lực để các doanh nghiệp đẩy mạnh hợp tác phát triển thị trường lao động này. Thực trạng này cũng mở ra nhiều cơ hội cho người lao động Việt Nam muốn làm việc tại Đài Loan (Trung Quốc). Bên cạnh đó, theo Cục Quản lý Lao động nước ngoài, Đài Loan (Trung Quốc) đã nới lỏng các chính sách của mình để tiếp nhận nguồn lao động từ khu vực Đông Nam Á. Năm 2015, lượng lao động xuất khẩu sang Đài Loan (Trung Quốc) tăng thêm hơn 5000 người, đạt ở mức trên 67.000 lao động. Đến năm 2016, số lượng này tăng lên trên 68.000 người. Bảng 1.Bảng số liệu lao động xuất khẩu sang Đ i Loan (Trung Quốc)[1] Năm 2012 2013 2014 2015 2016 8 tháng 2017 Số lao động xuất khẩu 30.533 46.368 62.124 67.121 68.244 39.746 Nguồn: Cục Quản lý lao động ngoài nước Đài Loan (Trung Quốc) đã có nhiều điều chỉnh về mặt pháp lý tạo thuận lợi cho người lao động làm việc tại nước này. Cụ thể, ngày 21/10/2016, Quốc hội Đài Loan (Trung Quốc) đã ban hành điều luật sửa đổi số 52, từ việc lao động hết 3 năm phải về nước 1 lần thành việc lao động có thể ở lại 12 năm đối với công nhân công xưởng, 14 năm với khán hộ công gia đình. Lợi ích lớn nhất của điều luật này là người lao động chỉ mất duy nhất chi phí lần đầu, không phải trả chi phí cho các lần tái nhập cảnh tiếp theo. Khi người lao động có nhu cầu về nước thăm gia đình, có thể TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 425 xin phép chủ sử dụng và làm giấy tờ cần thiết là có thể về nước., cũng có nghĩa là người lao động không phải tiếp tục gánh chịu các chi phí thủ tục quá cao như trước. Cơ cấu lao động về độ tuổi và giới tính phân bổ theo hướng tích cực. Độ tuổi từ 24 đến 34 chiếm trên 90% đối với lao động làm việc tại khu vực sản xuất và lao động có độ tuổi từ 25 đến 44 tuổi chiếm gần 78% đối với lao động làm việc trong khu vực dịch vụ xã hội [2]. Theo đánh giá chung, lao động xuất khẩu sang Đài Loan (Trung Quốc) có khả năng làm việc, chăm chỉ, tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật tiên tiến, lao động có chuyên môn kỹ thuật đã gia tăng đáng kể trong những năm trở lại đây. Về phía Cơ quan Lao động Đài Loan (Trung Quốc), tại các diễn đàn lao động, họ cho rằng: trên bình diện chung, lao động Việt Nam được chủ sử dụng ưa dùng vì những ưu điểm rất cơ bản nêu trên, về sự tương đồng văn hóa và sự chăm chỉ, thông minh. 2.NỘI DUNG 2.1. Những yêu cầu về lao động của Đ i Loan (Trung Quốc) trƣớc ảnh hƣởng của cuộc cách mạng 4.0 Hiện nay, với những ngành nghề giản đơn như khán hộ công gia đình, lao động công xưởng không yêu cầu cao về trình độ học vấn. Tuy nhiên, không phải ai cũng có cơ hội để đi xuất khẩu lao động Đài Loan (Trung Quốc). Lao động muốn tham gia xuất khẩu lao động Đài Loan (Trung Quốc) phải đáp ứng đủ những ... ứng một số yêu cầu sau: - Thứ nhất, người lao động cần tuân thủ pháp luật của nước sở tại. Điều này giúp giảm tỷ lệ lao động bỏ trốn ra ngoài làm việc. - Thứ h i, người lao động cần chuẩn bị tốt về ngoại ngữ để đáp ứng cho công việc tại nước sở tại. - Thứ b người lao động xuất khẩu sang thị trường Đài Loan (Trung Quốc) – một trong những thị trường phát triển mạnh mẽ về mặt công nghệ cũng phải đáp ứng được yêu cầu về sử dụng công nghệ. Ngay cả hiện nay, công việc giản đơn như giúp việc gia đình cũng cần có những hiểu biết nhất định về công nghệ để đáp ứng được sử dụng các thiết bị công nghệ luôn luôn thay đổi trong gia đình, đặc biệt trước cuộc cách mạng công nghệ đang phát triển như vũ bão hiện nay. - Thứ tư đối với những ngành nghề như hộ lý, y tá, yêu cầu về tay nghề, kinh nghiệm đã được qua đào tạo là bắt buộc. Tại Đài Loan (Trung Quốc), số lượng người già, bệnh nhân đang tăng cao, nhưng những người bản xứ thì không làm những công việc vất vả nặng nhọc, không muốn làm những việc như chăm sóc người bệnh. Đối với họ, công việc này yêu cầu quá nhiều sự tỉ mỉ, cẩn trọng, có nhiều quy tắc phải tuân theo và quá vất vả. Do đó, ở Đài Loan (Trung Quốc) đang rất thiếu lao động trong ngành nghề này. Bên cạnh đó, ngành hộ lý, chăm sóc người bệnh, người già ở nước này, đang được chính phủ Đài Loan (Trung Quốc) ưu tiên, do nhu cầu ngày một tăng cao. Vì vậy, người lao động sẽ được hưởng rất nhiều chính TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 426 sách đãi ngộ từ chính phủ Đài Loan (Trung Quốc). Cơ hội được làm việc lâu dài tại Đài Loan (Trung Quốc), có thể lên tới 14 năm đối với chăm sóc người bệnh tại nhà, 12 năm với ngành hộ lý hay công xưởng, khác với thị trường Nhật Bản người lao động chỉ có thể ở lại vừa học vừa làm trong vòng 3 năm, một số ngành nghề có thể được 5 năm như xây dựng. 2.2. Những bất cập, hạn chế trong quản lý lao động Việt Nam sang Đ i Loan (Trung Quốc) Bên cạnh những lợi thế vốn có, xuất khẩu lao động Việt Nam sang Đài Loan (Trung Quốc) còn nhiều bất cập hạn chế cả về phía người lao động lẫn trong hoạt động quản lý lao động. 2.2.1.Hạn chế về phí người l o đ ng - Về sức khoẻ Do xuất phát điểm kinh tế, Việt Nam là một nước nông nghiệp nghèo và đông dân nên phần lớn lực lượng lao động ở nước ta chưa đủ điều kiện về sức khoẻ để đảm bảo cho công việc của họ ở nước ngoài được liên tục, trôi chảy với mức lương hợp lý. Đây là khó khăn đầu tiên khi tuyển dụng lao động cho xuất khẩu. - Về tác phong làm việc Cơ chế kế hoạch hoá tập trung tồn tại ở nước ta trong một thời gian dài đã có ảnh hưởng lớn và in sâu vào tâm trí người lao động. Do vậy, lề lối và tác phong của người lao động là chậm chạp và tinh thần trách nhiệm chưa cao. Có thể coi đây là yếu kém lớn nhất khi tiếp nhận lao động Việt Nam. - Về trình độ, tay nghề Lao động Việt Nam làm việc tại nước ngoài chủ yếu đã qua đào tạo, tuy nhiên vẫn chưa thể đáp ứng hoàn toàn nhu cầu của chủ sử dụng lao động do hạn chế về năng lực chuyên môn, khả năng giao tiếp, không có khả năng ngoại ngữ, ít hiểu biết về các yếu tố như văn hoá, phong tục tập quán, thói quen sinh hoạt cũng như hệ thống pháp luật của nước sở tại. Ngoài ra, người lao động Việt Nam còn rất thiếu về kinh nghiệm làm việc. 2.2.2. Những bất cập trong quản lý M t là, bất cập trong quản lý từ phía đối tác. Có trường hợp đối tác khó khăn về vốn, thiếu việc làm, chậm trả lương cho người lao động, thiếu am hiểu hoặc không tuân thủ luật pháp, ỷ thế "ông chủ" để gây sức ép trong việc thực hiện hợp đồng lao động, làm khó dễ cho người lao động... Điều này đã dẫn đến việc bên cung ứng lao động phải tốn kém rất nhiều để giải quyết các vụ việc đó. Hai là, chưa kiểm soát được tình trạng lao động bỏ trốn. Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, vào cuối năm 2015, có tới hơn 1000 lao động Việt Nam đang làm việc tại Đài Loan (Trung Quốc) bỏ trốn mỗi tháng, nguyên nhân là do nhiều người phải đi qua quá nhiều trung gian mới có thể đến được Công ty nên mức chi phí đã bị đẩy lên khá cao. Do hiểu biết hạn hẹp người lao động nghe theo nhiều sự xúi dục từ những tổ chức phản động kích động, đã gây lên nhiều những hành động sai trái, tình trạng khiếu kiện được diễn ra bừa bãi làm loạn thị trường tại Đài Loan (Trung Quốc), v.v Trong đó, 70% đến 80% là những lao động sắp hết hạn hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài với mục đích muốn ở lại và kiếm thêm thu nhập [3]. Tình trạng này tồn tại trong nhiều năm qua là nguyên nhân dẫn đến việc phía Đài Loan (Trung Quốc) có những lúc đã không cấp phép cho doanh nghiệp mới hoạt động đưa lao động sang, đồng thời dừng việc gửi và tiếp nhận lao động Việt Nam. Điều này còn gây ảnh hưởng đến uy tín của công ty đối với đối tác nước ngoài và uy tín của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế mà còn dẫn đến hậu quả nhãn tiền là nhiều nước đã thu hẹp, thậm chí từ chối đối với lao động người Việt. Ba là, việc quản lý các doanh nghiệp xuất khẩu lao động vẫn còn lỗ hổng. Điển hình là việc các doanh nghiệp thu phí quá cao so với quy định vẫn diễn ra. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động mà cũng dẫn tới việc người lao động bỏ trốn sau khi hết hạn hợp đồng để làm việc bất hợp pháp nhằm kiếm thêm thu nhập bù vào chi phí xuất TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 427 cảnh quá lớn phải bỏ ra. Tuy tỷ lệ bỏ trốn của người lao động Việt Nam ở thị trường Đài Loan (Trung Quốc) không quá cao như tại Hàn Quốc, nhưng cũng ở mức trên dưới 10%, nên nếu không sớm có biện pháp chấn chỉnh, thì nguy cơ bị đóng cửa thị trường như từng xảy ra với Hàn Quốc không phải là viễn cảnh xa vời [3]. Bốn là thiếu hành lang pháp lý và mô hình quản lý, bảo vệ quyền lợi người lao động làm việc ở nước ngoài hiệu quả. Tuy thời gian qua chúng ta đã cố gắng ban hành luật và các văn bản dưới luật về XKLĐ nhưng phải nói rằng các văn bản pháp lý của ta vẫn thiếu tính đồng bộ và thực tế, khó đi vào cuộc sống, chưa nói đến khả năng chế tài rất khó. Trong khi đó, cách quản lý lao động hiện nay còn thô sơ, thủ công mang nặng tính thụ động và giải quyết sự vụ cộng với số lượng cán bộ của Ban quản lý lao động và đại diện doanh nghiệp vừa thiếu lại vừa yếu trong khi phải quản lý một địa bàn rộng nên việc theo dõi quản lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động chưa kịp thời và hiệu quả. Công tác quản lý lao động ở nước ngoài đối với một số doanh nghiệp bị xem nhẹ, phần vì muốn tiết giảm chi phí, phần vì thủ tục và điều kiện khó khăn cộng với lao động sống rải rác, đan xen, cộng với số văn phòng đại diện quản lý lao động của doanh nghiệp XKLĐ ở nước ngoài quá ít, cán bộ quản lý đã thiếu lại yếu về ngoại ngữ, nghiệp vụ và thường xuyên thay đổi, thiếu sự phối hợp với chủ sử dụng lao động để giải quyết kịp thời các phát sinh. Năm là bất cập trong quản lý từ phía doanh nghiệp. Các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng gặp khó khăn về tiếp cận lao động tại địa phương cũng như khó vay vốn, ký quỹ. Tại Hội nghị "nâng cao chất lượng hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng" tổ chức tháng 3/2017 vừa qua, nhiều doanh nghiệp cho biết đang gặp khó khăn về nguồn tuyển lao động đi làm việc ở nước ngoài bởi tình trạng giấy phép con. Hiện thủ tục vay vốn tại một số tỉnh thành gặp nhiều khó khăn từ phía các ngân hàng, mặc dù Công ty đều ký quỹ tại Các ngân hàng nhưng vẫn không được ngân hàng chấp nhận cho vay vốn, điển hình như trong Thành phố Hải Phòng nếu lao động từ các khu vực ngoại thành, huyện thì được vay vốn nếu người lao động được Doanh nghiệp cung cấp hồ sơ vay vốn và đủ hồ sơ pháp lý, nhưng phần lớn nếu lao động thuộc diện hộ khẩu nằm trong thành phố thì gần như không được vay vốn từ phía Ngân hàng. Hoặc một số tỉnh thành nếu Doanh nghiệp chưa đến làm việc với Tỉnh- Huyện – Xã để xin phép được đưa lao động tại địa phương đó sang nước ngoài thì sẽ khó có thể được vay vốn tại ngân hàng, hoặc người lao động sẽ không được ký, đóng dấu hồ sơ xã từ địa bàn đó, mặc dù Các Doanh nghiệp đã được sự cấp phép từ phía Bộ Lao Động. Nhiều doanh nghiệp XKLĐ là doanh nghiệp vừa và nhỏ, không chuyên doanh, năng lực cạnh tranh thấp. Vì vậy, khi đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài một số doanh nghiệp đã không khảo sát kỹ thị trường, không tiến hành công tác thẩm định đơn hàng, dẫn tới có trường hợp khi lao động sang tới nơi gặp phải điều kiện sống và làm việc không phụ hợp thì phản ứng có phần tiêu cực, tạo mặc cảm cho chủ sử dụng lao động, làm xấu đi quan hệ chủ thợ. 2.3. Giải pháp quản lý xuất khẩu lao động sang Đ i Loan (Trung Quốc) 2.3.1. Giải pháp từ phía cơ quan quản lý nhà nước - Thứ nhất, hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm quản lý doanh nghiệp xuất khẩu tốt hơn, tập trung giảm thiểu lao động bỏ trốn cũng như bảo vệ quyền lợi của người lao động. Sự thiếu đồng bộ trong hành lang pháp lý, thủ tục trình tự xét xử phức tạp hiện nay khiến cho việc tìm kiếm lao động bỏ trốn ở nước ngoài để đưa ra tòa không hề đơn giản. Cho nên đến nay hầu như chưa có trường hợp lao động bỏ trốn nào bị đưa ra tòa, hay bị phạt tiền thật sự khi bị trục xuất về Việt Nam. Một số hành vi vi phạm nhưng chưa được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật nên thiếu căn cứ để xử lý; còn có những quy định của pháp luật chưa đồng bộ, nên chưa điều chỉnh hết các quan hệ xã hội phát sinh trong thực tiễn; ngoài ra còn có sự xung đột pháp luật giữa nước tiếp nhận với quy định của Việt Nam. Giải quyết bất cập TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 428 trên, nhiều ý kiến đề nghị cần siết lại quy định trong tuyển chọn lao động, nâng mức chế tài không chỉ đối với doanh nghiệp có lao động bỏ trốn cũng như thu phí của người lao động cao hơn mức quy định của pháp luật mà với cả người lao động nếu có hành vi phá vỡ hợp đồng, bỏ trốn ra ngoài làm ăn phi pháp. - Thứ hai, tăng cường công tác chỉ đạo, quản lý, kiểm tra, thanh tra, phát hiện việc xử lý vi phạm trong việc đưa người lao động đi xuất khẩu theo quy định của pháp luật. Cần phải có các chế tài xử lý thật nghiêm khắc để chấn chỉnh được tình trạng gian lận trong công tác xuất khẩu lao động của tỉnh. - Thứ b tăng cường công tác thông tin tuyên truyền. Các cấp chính quyền cần tăng cường hợp tác chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng để có thể thông tin đầy đủ và kịp thời tới người lao động về các chủ trương chính sách, thông tin về nhu cầu, điều kiện thị trường và tiêu chuẩn lao động để người lao động chủ động đầu tư học tập nâng cao trình độ nghề nghiệp và ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu thị trường lao động quốc tế. - Thứ 4, Sở Lao động Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với các ngành liên quan nghiên cứu mở rộng thị trường XKLĐ; xây dựng chế độ hỗ trợ khuyến khích XKLĐ. Thông báo công khai về thị trường lao động, số lượng tiêu chuẩn tuyển chọn, các điều kiện về làm việc và sinh hoạt, quyền lợi trách nhiệm của người lao động và các khoản đóng góp, quản lý, chỉ đạo các Trung tâm Dịch vụ việc làm, cơ sở đào tạo nghề tổ chức thực hiện giáo dục định hướng theo đúng nội dung, chương trình, thời gian và chất lượng theo quy định, đáp ứng nguồn nhân lực đủ tiêu chuẩn XKLĐ; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra XKLĐ theo quy định; tổng hợp báo cáo UBND tỉnh theo định kỳ 6 tháng, một năm. - Thứ năm chấn chỉnh các vướng mắc, tạo điều kiện tốt nhất để các doanh nghiệp xuất khẩu lao động tiếp cận được với lao động địa phương cũng như tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. 2.3.2. Giải pháp quản lý từ phía doanh nghiệp - Thứ nhất, các doanh nghiệp phải kết hợp sát sao với đối tác nước ngoài để theo dõi và quản lý lao động của mình. Đối với Doanh nghiệp đưa được từ 100 lao động trở lên phải cử đại diện tại nước ngoài theo dõi và quản lý lao động. Ngoài ra hàng quý, người phụ trách quản lý phải kết hợp với các đối tác để theo dõi và quan tâm kiểm tra lao động tại nước ngoài theo định kỳ 03 tháng/1lần. Giải quyết khi có phát sinh xảy ra một cách kịp thời. - Thứ hai, đẩy mạnh việc phối kết hợp đào tạo nghề cho lao động với các cơ sở đào tạo chuyên dụng, thường xuyên phối hợp và kiểm soát chất lượng lao động gửi đào tạo. - Thứ ba, chú trọng không chỉ đào tạo ngoại ngữ mà còn cần đào và giáo dục định hướng kỹ trước khi đưa lao động ra làm việc tại nước ngoài, chỉ có như vậy mới hạn chế được những phát sinh sau khi xuất cảnh. 3. KẾT LUẬN Đài Loan (Trung Quốc) là thị trường xuất khẩu lao động trọng điểm nên nhiều năm qua đã được quan tâm nhiều hơn trong việc chỉnh đốn thị trường và điều chỉnh các chính sách nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động. Trước thách thức của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhiều việc làm truyền thống sẽ biến mất trong tương lai. Vì vậy, để duy trì thị trường lao động truyền thống như Đài Loan (Trung Quốc) với những ngành nghề khó thay thế rất quan trọng để duy trì việc làm của người lao động trong tương lai cũng như đảm bảo an sinh xã hội. Để giải quyết những bất cập trong quản lý đang diễn ra cho thị trường lao động này cần cần có nhiều giải pháp tổng thể và linh hoạt hơn nữa nhằm giữ gìn uy tín của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế, từ đó giữ vững và phát triển thị trường xuất khẩu lao động. TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG 429 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. “Báo cáo xuất khẩu lao động sang Đài Loan (Trung Quốc)”; Cục Quản lý lao động ngoài nước (2017) 2. Nguyễn Thị Tuyết Nhung (2013), “Tổng quan tình hình lao động Việt Nam tại Đài Loan (Trung Quốc)”, Hiệp hội Xuất khẩu lao động Việt Nam ( 3. Hà Nam (2016), Xuất khẩu lao động Đài Loan (Trung Quốc): Phí cao và lao động bỏ trốn, Báo Điện tử Đài tiếng nói Việt Nam, dai-loan-phi-cao-va-lao-dong-bo-tron-497488.vov INFLUENCE OF THE 4.0 REVOLUTION ON THE EXPORT OF VIETNAMESE LABORS TO THE TAIWAN MARKET Abstract and Keywords: Taiwan is one of the key export markets for labor in our country. After 18 years of implementing the agreement on sending and receiving Vietnamese workers to Taiwan, the annual size of Vietnam's labor force to work in this market always accounts for a high proportion of the total labor force in Vietnam to work abroad. At risk of breaking the current labor market when the 4th industrial revolution taken place, the labor export, especially to traditional markets such as Taiwan, where industries and machinery are difficult to replace, such as caring for patients at home and at hospitals, offshore fishing, etc. The need to maintain stability and development. However, the management of Vietnamese labor to Taiwan is still inadequate. The article provides an overview of the labor export situation in Taiwan in recent years, the inadequacies and limitations of labor management to work in Taiwan, in order to manage this labor market. Solving these inadequacies will contribute to stabilizing the labor market of our country before the industrial revolution 4.0. Keywords: labor export, Taiwan, inadequacies, labor management, development solutions, industrial revolution 4.0
File đính kèm:
- anh_huong_cua_cach_mang_4_0_toi_cong_tac_xuat_khau_lao_dong.pdf