Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu

Tóm tắt

Với chặng đường gần một thế kỷ kể từ khi ra đời đến nay, nền âm nhạc mới Việt Nam trải qua nhiều

giai đoạn phát triển khác nhau với nhiều thành tích đáng tự hào mà một trong những đỉnh cao là thể loại

Giao hưởng. Trong khi những thành tựu của âm nhạc giao hưởng tại miền Bắc (giai đoạn trước năm

1975) được ghi nhận, tập hợp, thống kê và phổ biến khá rộng rãi thì những thành tựu của âm nhạc giao

hưởng miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng lại sớm rơi vào quên lãng do biến động của thời cuộc.

Tuy nhiên, nghệ thuật đích thực luôn xuất phát từ trái tim và những giá trị âm nhạc của quá khứ cần

được nhìn nhận lại một cách khách quan và trân trọng.

Từ khóa: âm nhạc, giao hưởng, Việt Nam, Sài Gòn, trước 1975.

Abstract

In nearly a century since its inception, Vietnam's New Music has gone through stages of development

with outstanding achievements, in which one of the peaks is Symphony style. While the symphonic

achievements in the North (pre-1975 period) are well documented, collected, estimated and widely

published, the accomplishments in the South in general and Sai Gon in particular fade into oblivion due

to political changes. However, real art always emerges from true human feelings, on balance, the

musical values of the past need to be reconsidered objectively and respectfully.

Keywords: music, symphony, Vietnam, Saigon, before 1975.

Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu trang 1

Trang 1

Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu trang 2

Trang 2

Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu trang 3

Trang 3

Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu trang 4

Trang 4

Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu trang 5

Trang 5

Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu trang 6

Trang 6

Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu trang 7

Trang 7

Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu trang 8

Trang 8

pdf 8 trang baonam 8940
Bạn đang xem tài liệu "Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu

Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 31 (56) - Thaùng 8/2017 
 Âm nhạc giao hưởng tại Sài Gòn - Vài góp nhặt từ tư liệu 
 Symphony music in Saigon – Some notes from historical materials 
 ThS. Nguyễn Thị Ngọc Dung, 
 Nhạc viện TP.HCM 
 Nguyen Thi Ngoc Dung, M.A., 
 Ho Chi Minh City Conservatoire 
Tóm tắt 
Với chặng đường gần một thế kỷ kể từ khi ra đời đến nay, nền âm nhạc mới Việt Nam trải qua nhiều 
giai đoạn phát triển khác nhau với nhiều thành tích đáng tự hào mà một trong những đỉnh cao là thể loại 
Giao hưởng. Trong khi những thành tựu của âm nhạc giao hưởng tại miền Bắc (giai đoạn trước năm 
1975) được ghi nhận, tập hợp, thống kê và phổ biến khá rộng rãi thì những thành tựu của âm nhạc giao 
hưởng miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng lại sớm rơi vào quên lãng do biến động của thời cuộc. 
Tuy nhiên, nghệ thuật đích thực luôn xuất phát từ trái tim và những giá trị âm nhạc của quá khứ cần 
được nhìn nhận lại một cách khách quan và trân trọng. 
Từ khóa: âm nhạc, giao hưởng, Việt Nam, Sài Gòn, trước 1975. 
Abstract 
In nearly a century since its inception, Vietnam's New Music has gone through stages of development 
with outstanding achievements, in which one of the peaks is Symphony style. While the symphonic 
achievements in the North (pre-1975 period) are well documented, collected, estimated and widely 
published, the accomplishments in the South in general and Sai Gon in particular fade into oblivion due 
to political changes. However, real art always emerges from true human feelings, on balance, the 
musical values of the past need to be reconsidered objectively and respectfully. 
Keywords: music, symphony, Vietnam, Saigon, before 1975. 
 1. Mở đầu thành về trí tuệ và tư duy âm nhạc của con 
 Nhà soạn nhạc Áo Gustav Mahler người, nó cho phép thể hiện những nội 
(1860-1911) đã từng nhận định về giao dung tư tưởng súc tích, phong phú và đa 
hưởng: “Một tác phẩm giao hưởng phải dạng nhất của con người, những suy tư triết 
giống như thế giới, nó phải chứa đựng tất lý, những ước mơ về tương lai, những cảm 
cả” (1). Khi có ý so sánh một tác phẩm âm xúc sâu sắc và tinh tế: từ chất trữ tình đến 
nhạc không lời với “cả thế giới”, nhà soạn chất anh hùng ca, từ sự lạc quan yêu đời 
nhạc không chỉ khẳng định vai trò “đỉnh đến nét bi thương kịch tính Tất cả đều 
cao” về học thuật mà còn đề cao nội dung được diễn đạt bằng âm thanh với bố cục 
tư tưởng cũng như phạm vi thể hiện của chặt chẽ, logic và hoàn chỉnh. 
giao hưởng so với các loại hình âm nhạc Tại Việt Nam hiện nay, kinh tế và dân 
khác. Âm nhạc giao hưởng là một trong trí cùng phát triển, âm nhạc giao hưởng bắt 
những biểu hiện rực rỡ nhất của sự trưởng đầu nhận được sự quan tâm của xã hội. Âm 
 103 
ÂM NHẠC GIAO HƯỞNG TẠI SÀI GÒN - VÀI GÓP NHẶT TỪ TƯ LI U 
nhạc kinh viện nói chung và các tác phẩm Béka) đã tràn vào Việt Nam. Để đáp ứng 
giao hưởng nói riêng đã trở thành đối sở thích nghe nhạc đa dạng của công 
tượng nghiên cứu xuất hiện trong nhiều chúng, ông chủ của các hãng đĩa trên đã 
công trình khoa học, sách tư liệu, tham kết hợp những sản phẩm văn hoá tinh thần 
luận hội thảo, bài báo, luận án, luận văn, của người Việt và cả sản phẩm văn hoá của 
phim tài liệu, phóng sự, phỏng vấn trên các người phương Tây bằng cách phát hành đĩa 
tạp chí truyền thanh và truyền hình. Các Tuồng, Chèo, Cải lương song song với các 
thành tựu của âm nhạc giao hưởng miền đĩa nhạc nhẹ, nhạc cổ điển của châu Âu. 
Bắc (trước 1975) và âm nhạc kinh viện Thực chất, các loại đĩa nhạc của châu Âu 
Việt Nam giai đoạn từ sau năm 1975 đến đã phần nào đánh đúng tâm lý “thích cái 
nay được giới học giả quan tâm, ghi nhận mới” của nhiều người dân Việt Nam. Ở các 
khá đầy đủ và chi tiết. Tuy nhiên giai đoạn phòng trà, tiệm nhảy đã phổ biến các vũ 
trước năm 1975, do ảnh hưởng của thời điệu phương Tây như tango, valse, fox-
cuộc và sự chia cắt 2 miền đất nước khiến trot..., các tiểu phẩm khí nhạc để hòa tấu... 
cho những thành tựu của giao hưởng miền Ngoài ra, những năm đầu thế kỷ XX còn có 
Nam, cụ thể hơn, của Sài Gòn, trong thời một số đoàn ca nhạc kịch từ Pháp sang 
kỳ này sớm rơi vào quên lãng. biểu diễn ở Sài Gòn. Âm nhạc phương Tây 
 2. Những tiền đề và những sinh hoạt ngấm dần, và trở nên “thân quen” với tai 
khí nhạc đầu tiên ở Sài Gòn nghe nhạc của người miền Nam. 
 Những năm cuối thế kỷ XIX, một số Năm 1930, đội kèn của lính viễn chinh 
trường dòng được mở ra ở Sài Gòn, vừa Pháp đã biểu diễn ở Sài Gòn nhân khánh 
truyền đạo, vừa truyền bá âm nhạc tôn giáo thành đường sắt, tác động không nhỏ đến 
phương Tây và truyền dạy kiến thức âm công chúng miền Nam từ cách nghe nhạc 
nhạc lẫn cách chơi nhạc cụ phương Tây cho đến việc sử dụng các loại nhạc khí phương 
người Việt Nam. Theo nhận định của giáo Tây. Một số người miền Nam ở vào thời 
sư Tô Vũ, “tân nhạc viết solfège đầu tiên điểm đó cũng đã biết sử dụng các loại kèn 
xuất hiện ở Sài Gòn do một tu sĩ Công giáo Tây, biết xướng âm và làm quen dần với 
ngườ ... oạt động biểu sĩ khoa Sáng tác tại Nhạc viện Santa 
diễn định kỳ của các đội kèn nhà binh, Cecilia năm 1962 (hay còn có tên là Học 
những tác phẩm viết cho nhạc cụ độc tấu, viện âm nhạc Giáo hoàng Roma)... Có thể 
một số tiểu phẩm nhạc thính phòng có qui nói rằng Trường Quốc gia Âm nhạc và 
mô nhỏ và chưa có những tác phẩm thực Kịch nghệ là cái nôi đào tạo ra nhiều nhạc 
thụ cho dàn nhạc. sĩ, giọng ca, tay đàn nổi tiếng của miền 
 3. Âm nhạc Giao hưởng Sài Gòn Nam, góp mặt trong nhiều chương trình 
1945-1975 giao lưu biểu diễn quốc tế cũng như phát 
 Để có thể đưa ra một nhận định cụ thể về hành đĩa hát ăn khách trong thời kỳ này. 
nền âm nhạc giao hưởng trong một khoảng Bên cạnh những nhạc sư tên tuổi trực 
thời gian nhất định đòi hỏi người nghiên cứu tiếp đứng lớp, thành tựu quan trọng trong 
phải có một cái nhìn tổng quát trên cả 3 lĩnh vực đào tạo của âm nhạc Sài Gòn chính 
phương diện sau: (1) Sáng tác, (2) Biểu diễn, là phát hiện kịp thời những tài năng âm nhạc 
(3) Đào tạo và Nghiên cứu khoa học. Đây xuất sắc và gửi ra nước ngoài học như: nhạc 
chính là thế “chân vạc” giúp cho âm nhạc hàn sĩ Nguyễn Văn Tường (học nhạc tại Pháp từ 
lâm luôn giữ được nền tảng vững chắc để tiến năm 1951, nhạc sĩ nhạc điện thanh đầu tiên 
lên phía trước theo đúng qui luật “kế thừa và của Việt Nam); nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo 
phát triển” trong nghệ thuật. (sang Pháp năm 1953, nổi tiếng với những 
 a. Đào tạo và Nghiên cứu khoa học tác phẩm khí nhạc theo "chủ nghĩa Tiền 
 Trường Quốc gia Âm nhạc ra đời năm Phong", đạt nhiều giải thưởng quốc tế, đã 
1956 (đến năm 1960 đổi tên thành Trường được ghi danh trong hai từ điển âm nhạc “Le 
Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ, là tiền Petit Larousse, 1982”, “Le Petit Robert, 
thân của Nhạc Viện TP.HCM ngày nay) đã 1995” vì những đóng góp trong việc giao 
mời nhiều nhạc sư tên tuổi vào Ban giảng hòa âm nhạc Đông - Tây); Nhà soạn nhạc 
huấn của trường gồm 2 ngành là: Nhạc Tây đương đại - nhà nghiên cứu âm nhạc cổ 
Phương và Quốc Nhạc. truyền Tôn Thất Tiết (sang Pháp năm 1958, 
 Lúc mới thành lập, ngành Nhạc Tây đạt nhiều giải thưởng quốc tế danh giá); 
phương chỉ dạy: Dương cầm, Vĩ cầm, Những thành tích quốc tế của các nhạc sĩ nói 
Nhạc pháp, Nhạc sử, Hòa âm. Sau này trên vừa góp phần giới thiệu nhạc giao 
trường giảng dạy thêm rất nhiều nhạc cụ hưởng Việt Nam với bạn bè thế giới, vừa 
khác như: Trung Vĩ cầm, Hạ Vĩ cầm, Đại đem lại niềm tự hào cho âm nhạc Việt Nam, 
Vĩ cầm, Sáo Tây, Clarinette, Trompette, đồng thời gợi lên những vấn đề mới về 
Tây Ban cầm, Măng cầm và Hợp ca. Các chuyên môn đối với các nhạc sĩ trong nước 
nhạc sư của ngành Nhạc Tây phương đa và có tác dụng khích lệ rất lớn cho những ai 
phần đều tốt nghiệp Quốc Gia Nhạc Viện đam mê dòng nhạc giao hưởng. 
Paris - Conservatoire National de Paris Trong giai đoạn này, bên cạnh Trường 
hoặc Quốc Tế Nhạc Viện Paris - Quốc gia Âm nhạc và Kịch nghệ còn có 
Conservatoire International de Paris như: Trường Quân nhạc Sài Gòn (thành lập năm 
Đỗ Thế Phiệt, Nguyễn Khắc Cung - violin; 1966, với chương trình giảng dạy chuyên 
 106 
 NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG 
ngành Sĩ quan nhạc trưởng gồm các môn: Tương ứng với giai đoạn lịch sử này, 
Chỉ huy, Hòa âm, Phối khí - Cải soạn - tại miền Bắc, vấn đề phát triển âm nhạc đã 
Nhạc khí học, Sáng tác, Lễ nghi quân cách, được Đảng và Nhà nước quan tâm cụ thể, 
Nhạc nhẹ, Nhạc sử, Nhạc lý - Chính tả và thể hiện qua sự thành lập Ban Nghiên cứu 
Hành chánh - Quản trị nhân viên); Viện đại Âm nhạc - Vụ Nghệ thuật năm 1955 (từ 
học Minh Đức (Khoa Nhân văn - Nghệ năm 1968 đổi tên là Viện Nghiên cứu âm 
thuật) - trình độ Cử nhân Sư phạm Âm nhạc), sự ra đời của Trường Nghệ thuật 
nhạc với chương trình đào tạo được chia Quân đội năm 1955 và Trường Âm nhạc 
thành 21 tín chỉ như: Triết học Đông - Tây Việt Nam năm 1956 (tiền thân của Học 
nhập môn; Sư phạm Âm nhạc, Nhạc lý, viện Quốc gia Âm nhạc Việt Nam). Trước 
Hòa âm, Đối âm, Tẩu pháp (Fuga), Phương đây đa số các nhạc sĩ miền Bắc bước vào 
pháp Điều khiển (Chỉ huy), Nhạc khí nghề bằng cách tự học và trưởng thành 
học và trình độ Cao đẳng bao gồm 6 trong quá trình tham gia kháng chiến chống 
chuyên ngành: Ca sĩ, Ca nhạc trưởng, Pháp thì ở giai đoạn này đã có thêm lớp 
Quốc nhạc, Dương cầm, Thánh nhạc và nhạc sĩ, diễn viên, nhạc công được đào tạo 
Đại quản cầm. bài bản tại Trường Âm nhạc Việt Nam, 
 Công tác nghiên cứu khoa học ở miền nhạc sĩ xuất thân từ các lớp tập huấn của 
Nam thời kỳ này phát triển khá toàn diện: chuyên gia nước ngoài tại miền Bắc Việt 
về mảng âm nhạc phương Tây có rất nhiều Nam, nhạc sĩ được Nhà Nước gửi đi học tại 
sách phổ biến kiến thức âm nhạc như sách Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông 
Hòa âm, Hòa âm tân thời, Hòa âm thực Âu... đồng thời sử dụng giáo trình của các 
tập dẫn giải, Đối âm, Tẩu pháp (Fuga), nước khối Xã Hội Chủ Nghĩa trong giảng 
Nhạc lý, Sáng tác Thánh nhạc Thánh ca, dạy- nghiên cứu âm nhạc và đánh giá kết 
Tôi viết ca khúc tiếng Việt, Những điều cần quả học tập trong các cơ sở đào tạo âm 
biết khi dạy và học Piano, Hướng dẫn học nhạc chuyên nghiệp miền Bắc. 
Tây Ban Cầm, Sáo... do các nhạc sư đang Sáng tác 
giảng dạy chấp bút. Về mảng âm nhạc Việt Dưới tác động của nhiều yếu tố văn 
Nam: nhiều nghiên cứu, sưu tầm âm nhạc hóa - chính trị - xã hội, ca khúc vẫn là thể 
dân gian có giá trị được thực hiện và công loại chiếm vị trí chủ đạo trong âm nhạc 
bố như “Dân ca Việt Nam” (1961) Nguyễn miền Nam giai đoạn 1945-1975. Tuy 
Hữu Ba; “Hò miền Nam” (1962) Nguyễn nhiên, những nhạc sĩ được đào tạo bài bản 
Văn Hầu; “Điệu thức trong dân ca Nam và đam mê khí nhạc vẫn duy trì con đường 
Bộ” (1965) Ngô Đông Hải; “Đặc khảo dân học thuật riêng của mình và đạt được một 
nhạc ở Việt Nam” (1972) Phạm Duy; “Dân số thành tựu đáng kể. Một trong những 
ca Nam Bộ, một kho tàng âm điệu dân gian nhạc sĩ tiêu biểu đó chính là Nghiêm Phú 
phong phú” (1977) Ngô Huỳnh. Phi. Ông tốt nghiệp Ưu hạng tại viện Quốc 
 Nếu đặt yếu tố chính trị ra ngoài, các Gia Âm Nhạc Paris (Pháp) về Piano và 
tổ chức đào tạo âm nhạc tại Sài Gòn đã góp Hòa Âm. Tác phẩm “Divertimento I” 
phần tích cực trong việc tạo ra nguồn nhân (1960) và “Divertimento II” (1965) của 
lực âm nhạc cho xã hội, nâng cao trình độ ông viết theo thang âm ngũ cung, phối hợp 
cảm thụ âm nhạc và phổ biến những giá trị các nhạc khí dân tộc cổ truyền với dàn 
văn hóa âm nhạc vào xã hội. nhạc giao hưởng Tây phương, được trình 
 107 
ÂM NHẠC GIAO HƯỞNG TẠI SÀI GÒN - VÀI GÓP NHẶT TỪ TƯ LI U 
diễn nhiều lần trước khán giả Việt Nam và các thể loại âm nhạc ở hình thức lớn như: 
quốc tế và được đánh giá cao bởi các nhà giao hưởng nhiều chương, nhiều phần, hợp 
báo viết âm nhạc nước ngoài. Đặc biệt, xướng kết hợp với dàn nhạc giao hưởng, 
trong tác phẩm “ pollo 14” (1971) do ông kịch múa và quy mô nhất là thể loại nhạc 
sáng tác và thu âm trực tiếp còn đưa những kịch (opéra). Ngay từ đầu thập niên sáu 
âm thanh thường được nghe trong các mươi, các nhạc sĩ miền Bắc đã tự đặt ra 
phim khoa học giả tưởng vào tác phẩm cho mình cái đích cuối cùng phải tiến tới là 
giao hưởng (là điều chưa có ai thực hiện nhạc kịch Việt Nam. 
trước đó). Tứ tấu dây “Fantasia I” (1974) Biểu diễn 
được ông hoàn tất với nhiều thử nghiệm Giai đoạn từ 1945- 1975, các hoạt 
mới lạ trong cách diễn tấu. Ngoài ra các tác động biểu diễn văn hóa văn nghệ ở Sài 
phẩm giao hưởng của nhạc sĩ - nhà chỉ huy Gòn diễn ra khá mạnh mẽ. Với sự góp mặt 
dàn nhạc Nghiêm Phú Phi, còn có giao từ rất sớm của các phòng trà, tiệm nhảy, 
hưởng của nhạc sĩ Lê Văn Khoa cao lâu... nền nhạc mới phía Nam có nhiều 
(“Symphony Viet Nam 1975” - được sáng điều kiện tiếp xúc và giao lưu với âm nhạc 
tác trong 20 năm và trình diễn lần đầu ở c phương Tây, đặc biệt trong lĩnh vực ca 
năm 1995), một số tác phẩm khác viết ở khúc. Các hãng đĩa lớn đều được thành lập 
hình thức lớn như: hợp xướng “Cửu Long tại Sài Gòn như: Việt Nam, sia, Sóng 
Giang” (5 chương, Phan Miêng, 1972), Nhạc, Sơn Ca, Continental, Thiên Thai, Vô 
trường ca, vũ kịch: “Kim Trọng Thúy Tuyến cũng hoạt động thu âm và phát 
Kiều” (1962 - 1966, Phạm Thế Mỹ); ca hành băng đĩa khá tích cực. Mỗi đài phát 
kịch nhỏ: “Hoa bướm và thiếu nữ” (1960, thanh lớn đều có ban nhạc cổ điển Tây 
Phạm Thế Mỹ), “Nước mắt người phương được dàn dựng và chỉ huy bởi 
yêu” (1961, Phạm Thế Mỹ); nhạc kịch: những nhạc sĩ tên tuổi đương thời như: đài 
 “Sắc lụa trữ la” (1958-1960, Phạm Thế phát thanh Pháp Á - nhạc sĩ Trần Cang, đài 
Mỹ); các tác phẩm phối khí kết hợp giữa phát thanh Quân Đội - nhạc sĩ Văn Phụng, 
nhạc cụ dân tộc (chuông chùa, mõ, sáo Dương Thiệu Tước (chương trình “Cổ kim 
Việt, trống chầu...) với dàn nhạc giao hòa điệu”), đài phát thanh Sài Gòn - nhạc 
hưởng và nhiều hợp xướng tôn giáo viết ở sĩ Nguyễn Văn Đông, Vũ Văn Tuynh... 
hình thức lớn của linh mục nton Nguyễn Hơn nữa, với việc thành lập Trường Quốc 
Tiến Dũng... gia Âm nhạc, hoạt động biểu diễn âm nhạc 
 Trong lĩnh vực sáng tác âm nhạc chuyên nghiệp được chú trọng và trau dồi, 
chuyên nghiệp cùng khoảng thời gian này đội ngũ những người biểu diễn âm nhạc 
tại miền Bắc, đáng lưu ý có: phong trào phía Nam đã được bổ sung một cách đầy 
sáng tác hợp xướng và sự ra đời của những đủ và bài bản. Một số nhạc sư đang giảng 
tác phẩm thể nghiệm khai sinh cho các thể dạy tại trường cũng là nghệ sĩ biểu diễn 
loại nhạc đàn và tổng hợp thanh - khí nhạc chuyên nghiệp đoạt giải thưởng quốc tế 
như: thể loại giao hưởng một chương, tổ như: Đỗ Thế Phiệt (violin, giải Grand Prix 
khúc giao hưởng và thanh nhạc, thơ giao du Violon 1954 và giải Danh dự về nhạc 
hưởng Một trong những biểu hiện của Thính Phòng 1957)... 
tính chuyên nghiệp trong âm nhạc miền Bên cạnh các hoạt động chuyên môn 
Bắc thời kỳ này chính là mối quan tâm đến diễn ra khá sôi nổi trong nước, âm nhạc 
 108 
 NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG 
miền Nam còn đẩy mạnh hoạt động giao chỉnh với những nhạc sĩ có tên tuổi, được 
lưu quốc tế như: Đoàn Văn nghệ Việt Nam đào tạo bài bản trong nước và nước ngoài, 
tham dự Hội chợ Quốc tế Expo 70 tại có nhiều tác phẩm được quốc tế công nhận. 
Osaka, Nhật Bản năm 1970 (gồm 100 nghệ Một trong những thành tựu đáng tự hào của 
sĩ tân cổ nhạc và vũ cổ truyền). âm nhạc giao hưởng Sài Gòn trong giai 
 Trong lĩnh vực biểu diễn âm nhạc đoạn này chính là tính “thời sự” thể hiện 
chuyên nghiệp tại miền Bắc, có 1 một số sự trong tác phẩm, từ nội dung đến hình thức 
kiện đáng chú ý xảy ra trong khoảng thời và cả những kỹ thuật sáng tác, thể hiện sự 
gian này như: Ngày 2 9 1945 ban nhạc cập nhật của người nhạc sĩ đối với những 
Giải phóng quân đã chơi bài Tiến uân ca bước tiến mới trong âm nhạc thế giới. Tuy 
(hòa tấu kèn, dưới sự chỉ huy của nhạc sĩ nhiên, điều đáng buồn là hiện nay, các tư 
Đinh Ngọc Liên) trong buổi lễ thành lập liệu âm thanh cũng như văn bản âm nhạc 
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, bản hòa của thời kỳ này gần như đã thất lạc hết (do 
tấu “Vũ khúc tưng bừng” (chịu ảnh hưởng sự thay đổi về thời cuộc cũng như sự hạn 
của thể loại valse thành Vienne) do nhạc sĩ chế trong quá trình lưu trữ), những ghi chép 
Lương Ngọc Trác sáng tác cho dàn nhạc về tác giả-tác phẩm của giai đoạn này chỉ 
đã được trình diễn trong đêm Tuyên ngôn mang tính tản mạn, thể hiện hồi ức cá nhân 
Độc lập. Sau đó là sự ra đời hàng loạt các của người trong cuộc, thiếu hẳn sự thẩm 
đơn vị hoạt động biểu diễn âm nhạc chuyên định và phân loại một cách hệ thống và 
nghiệp ở miền Bắc như: Dàn nhạc Giao khoa học. Chính vì vậy, mong sao các cơ 
hưởng Việt Nam được hình thành với 114 quan chức năng, các đơn vị trong ngành và 
nhạc công (1959), Dàn Hợp xướng (1961), các cá nhân có tâm huyết với nghệ thuật 
2 năm sau hai đoàn này sát nhập, cộng cùng chung tay tìm kiếm, sưu tầm, khôi 
thêm bộ phận múa để hình thành Nhà hát phục và phổ biến lại những giá trị âm nhạc 
Giao hưởng - Hợp xướng - Vũ kịch Việt đã mất. Như nhà soạn nhạc Gioachino 
Nam (1963, tại Hà Nội) là tiền thân của Rossini đã từng nói: “Ngôn ngữ của âm 
Nhà hát Giao hưởng - Hợp xướng - Nhạc nhạc là ngôn ngữ chung của tất cả mọi thế 
vũ kịch Việt Nam ngày nay; thành lập các hệ và mọi dân tộc; ai cũng hiểu được nó, 
đoàn ca múa nhạc chuyên nghiệp như: bởi nó được hiểu bằng trái tim” (2). 
Đoàn ca nhạc Đài Tiếng nói Việt Nam Krakow-3.2017 
(1960), Đoàn ca múa Hà Nội (1960), Đoàn Chú thích: 
Ca múa Trung ương và Đoàn ca nhạc dân 
 (1) “ symphony must be like the world. It must 
tộc Trung ương (1962)... 
 contain everything” 
 4. Thay lời kết 
 Cho đến năm 1975, tại Việt Nam đã tồn (2) “The language of music is common to all 
 generations and nations; it is understood by 
tại 2 trung tâm hoạt động âm nhạc kinh viện 
 everybody, since it is understood with the 
khá hiệu quả là Hà Nội và Sài Gòn. Tuy heart”. 
quan điểm chính trị và phương hướng hoạt 
động khác nhau nhưng mỗi nơi đều có thế TÀI LIỆU THAM KHẢO 
mạnh riêng, thành tựu riêng đáng được trân 1. Thụy Kha (2009), “60 năm âm nhạc Việt 
trọng và ghi nhận. Đối với Sài Gòn, đã hình Nam - Nửa của chiến tranh, nửa thuộc thanh 
thành một nền âm nhạc giao hưởng hoàn bình”, Tạp chí Sông Hương, số 199. 
 109 
ÂM NHẠC GIAO HƯỞNG TẠI SÀI GÒN - VÀI GÓP NHẶT TỪ TƯ LI U 
2. Ngô Hoàng Linh (2015), “Sự phát triển nghệ 11. Viện Âm Nhạc (2000), Âm nhạc mới Việt Nam-
 thuật âm nhạc giao hưởng ở Việt Nam”, Tạp tiến trình và thành tựu, Nxb Viện Âm nhạc. 
 chí Sóng Nhạc, số 124. 12. Viện Âm Nhạc (2004), Hợp tuyển tài liệu 
3. Nguyễn Thị Nhung (2001), Âm nhạc Thính nghiên cứu - lý luận - phê bình âm nhạc Việt 
 phòng Giao hưởng Việt Nam - Sự hình thành Nam thế kỷ XX, Nxb Viện Âm nhạc. 
 phát triển - tác giả - tác phẩm, Nxb Viện 13. Viện Âm Nhạc (2005), Những tác phẩm giao 
 Âm nhạc. hưởng Việt Nam, Nxb Viện Âm nhạc. 
4. Nguyễn Đình San (2006), Nhạc Việt Nam 14. Viện Âm Nhạc (2007), Âm nhạc Việt Nam: 
 những vùng sáng tối, Nxb Thanh Niên. tác giả-tác phẩm, Nxb Viện Âm nhạc. 
5. Hữu Trịnh (2004), Sơ lược về tác phẩm âm 15. Viện Âm Nhạc (2010), “Tổng tập Âm nhạc 
 nhạc giao hưởng Việt Nam, website Việt Nam: Tác giả - Tác phẩm, Nxb Viện 
 giaidieuxanh.vn. Âm nhạc. 
6. Nguyễn Thế Tuân (2006), Nhạc Giao hưởng 
 Website 
 Việt Nam - 1 tiến trình lịch sử, luận án tiến sĩ 
 chuyên ngành nghệ thuật âm nhạc, Học viện 1. www.vienamnhac.vn 
 Âm nhạc Quốc gia Việt Nam. 2. www.tiengquehuong.wordpress.com 
7. Tư liệu phỏng vấn NGƯT Nguyễn Văn Đời 3. www.giaidieuxanh.vn 
 tại Nhạc viện TP.HCM ngày 6 8 2016. 4. www.dinh.dk 
8. Tô Vũ (2002), Âm nhạc Việt Nam - Truyền 5. www.tranquanghai.info 
 thống và hiện đại, Nxb Viện Âm nhạc. 6. www.hoinhacsi.com.vn 
 7. www.vnam.edu.vn 
9. Trần Nhật Vy (2000), “Tân nhạc Việt Nam từ 8. www.hcmcons.vn 
 năm 1911”, báo Tuổi trẻ xuân Canh Thìn. 9. www.nguyenthiendao.com 
10. Hội Nhạc sĩ Việt Nam (2007), Tự hào nửa thế 10. www.tonthattiet.com 
 kỷ Hội nhạc sĩ Việt Nam, Hội Nhạc sĩ Việt 11. www.dongnhacxua.com 
 Nam xuất bản. www.brainyquote.com 
Ngày nhận bài: 14/3/2017 Biên tập xong: 15/8/2017 Duyệt đăng: 20 8 2017 
 110 

File đính kèm:

  • pdfam_nhac_giao_huong_tai_sai_gon_vai_gop_nhat_tu_tu_lieu.pdf